Hôm nay,  

Ngày Quốc Tế Phở

06/01/202411:20:00(Xem: 3020)
Tùy bút

pho to

Người Việt tị nạn đã có một đóng góp to lớn vào văn hóa ẩm thực nhân loại: một thức ăn mang đậm bản sắc dân tộc Việt. Thức ăn dó là Phở. Mùi Phở thơm ngon hấp dẫn, nóng hổi, hợp với mọi khẩu vị đã chinh phục bao tử mọi người thuộc mọi tôn giáo. Hễ nơi nào có bước chân con dân xứ Việt ở thì nơi đấy có Phở.
    Phở xứng đáng được thế giới vinh danh để phải có một Ngày Quốc Tế Phở như Ngày Quốc Tế Trà (21/5), Ngày Quốc Tế Cà Phê (1/10) và Ngày Quốc Tế Bia (8/2), Ngày Quốc Tế Hạnh Phúc (20/3) chỉ trọn vẹn, đầy đủ, khi có Ngày Quốc Tế Phở, vì sau khi ăn Phở đều có lệ uống Trà, Bia hay Cà Phê, mới đúng điệu. Từ Đông sang Tây, từ Âu sang Á Phở đã là một món ăn quen thuộc với mọi sắc dân kể từ sau năm 1975.
   Cuốn Người Việt Niên Gíám Thương Mại 2024 cho biết tại Little Saigon ở Nam California - nơi được mệnh danh là thủ đô của người Việt với khoảng 200 ngàn người Việt - có cả trên hai ngàn hàng quán cà phê và quán ăn trong đó có gần 200 tiệm chuyên bán phở. Câu nói muốn ăn đồ Việt Nam thì hãy đền Cali rất đúng.
    Rời xứ nhưng người Việt xa quê mẹ vẫn mang theo quê hương các món ăn từ thuở đầu đời. Ở các tiệm này có bán hầu như không thiếu thứ gì hay món gì; ngay cả các đặc sản của từng vùng miền Nam Trung Bắc. Đặc biệt là Phở. Loanh quanh các con đường khu Westminter, Garden Grove, …đâu đâu cũng có bảng quảng cáo Phở. Phở ngon đây. Danh bất hư truyền.
    Chẳng những ở Cali mà ở khắp các thành phố nước Mỹ ở các tiệm ăn trong thực đơn đều có Phở. Tên Phở hay Vietnamese Noodle Soup đã có vị trí không thua hay hơn cả Sushi của Nhật, Kim Chi của Đại Hàn, Pizza của Ý, Cari của Ấn Độ, Taco của Mexico, Bánh Bao của Tàu hay Poutine của vùng Quebec. Có nhiều người Mỹ đã đồng hóa Việt Nam là Phở hay Phở là Việt Nam.
    Không sai khi nói muốn tìm hiểu lịch sử nước Mỹ thì nên tìm hiểu lịch sử các thức ăn ở xứ này qua các thời đại, các biến cố. Cũng như muốn tìm hiểu lịch sử cận đại Việt Nam thì nên tìm hiểu sự hình thành Phở từ cuối thế kỷ 19 tới nay. Phở đi từ Bắc vô Nam rồi Phở vượt biên sang các nước tự do như thế nào.
 
Ngày Của Phở
 
Phở khác với các thức ăn nêu trên vì Phở có tính toàn cầu, vượt mọi biên giới, chủng tộc hay tôn giáo và có thể ăn vào giờ giấc nào. Không bò thì có gà; không gà thì Phở chay hay Phở Biển. Các thức ăn kia chỉ phổ biến có giới hạn ở một vài quốc gia. Còn Phở đi đến đâu Phở cũng được dân xứ đó đón nhận cho là khoái khẩu và bổ dưỡng.
    Phở ở Phi Châu. Phở ở Âu Châu. Phở ở Úc Châu. Phở ở Á Châu. Hiện Phở đã có nhiều phó bản: Phở Đại Hàn, Phở Nam Dưong, Phở Thái, Phở Lào, Phở Hmong có tên là Fawm. Hồi tháng 5/1995 tờ Washington Post cho biết ở thủ đô nước Cờ Hoa suýt xảy ra một cuộc chiến tranh Phở vì tiệm nào cũng xưng mình là Vua Phở.
    Nhằm tôn vinh Phở tại xứ của Sushi  công ty Acecook Nhật  năm 2016  chọn ngày 4 tháng 4 hàng năm là Ngày Của Phở.  Hiệp hội những ngày kỷ niệm của con dân xứ mặt trời mọc đã công nhận đề nghị này. Tại sao là ngày 4/4? Ngày 4/4 được chọn bởi số 4 tiếng Anh là "four", phát âm giống với "Fō", cách gọi món Phở trong tiếng Nhật. Sau đó, Acecook còn đưa món Phở ăn liền vào hệ thống các cửa hàng tiện lợi ở Nhật.
    Thấy nước Nhật có một Ngày Của Phở mà chính nước có nguồn gốc Phở không có Ngày Của Phở nên báo Tuổi Trẻ ở Việt Nam năm 2017 mới cùng với hãng nói trên khởi xướng ngày 12 tháng 12 là Ngày Của Phở. Từ đó tới nay năm nào ở Việt nam cũng có tổ chức hội thảo, triển lãm về Phở nhằm tôn vinh và góp phần giữ gìn, cùng phát huy món Phở Việt Nam.
    Nấu Phở là một nghệ thuật tinh tế. Mỗi người mỗi cách có thể thêm thắt, chế biến, gia giảm nguyên liệu từ bún gạo, động vật bò, gà.., rau cải và gia vị miễn là nước Phở phải đậm đà thanh ngọt và có mùi Phở. Phở mà không mùi thì vô duyên tận mạng. Trăm tiệm Phở thì có trăm tô Phở có vị khác nhau; nhưng tô nào cũng phải có mùi Phở.  Cái mùi kỳ lạ khó giải thích nhưng đó là linh hồn của Phở.
    Như một đời người, Phở cũng thăng trầm theo dòng lịch sử Việt Nam. Tiếng rao Phở qua các gánh hàng rong quanh các khu phố Hà nội hồi đầu thế kỷ 20 đươc giới văn nghệ sĩ đưa vào văn học. Chẳng bao lâu Phở lâm vào cảnh mạt vận. Đó là thời bao cấp ở miền Bắc từ năm 1954 và cả nước từ 1976 tới 1986 dưới chế độ xã hội chủ nghĩa của Cọng Sản. Trong các cửa hàng mậu dịch, Phở bị biến chất, sinh ra Phở không người lái: Phở không có thịt thà gì cả.
    Phở chỉ nở rộ, phát triển mạnh sau khi có cả triệu người Bắc di cư vào Nam năm 1954. Tại đây, Phở có thêm ngò gai, rau quế, giá sống, giá chín, tương đen, tương đỏ. Biến cố 1975, người Việt tị nạn rời xứ đem theo quê hương trong đó có Phở. Không tuyên ngôn; không đòi xẻ núi, lấp sông; không đường mòn huyền thoại; không tôn sùng lãnh tụ; không bè đảng, hội hè, Phở chỉ qua đường thực quản đã thấm động lòng người khắp năm châu.

Di sản của đất nước 

Cuộc Nam Tiến của Phở giống như cuộc Nam Tiến của áo dài êm thắm, không gây chết chóc. Miền Nam vùng đất của thăng hoa, xuất hiện áo dài Trần Lệ Xuân (1958), áo dài với tay Raglan (1960), áo dài Mini Raglan (1971). Thời gian đó, ở miền Bắc Hồ Chí Minh năm 1947 qua bài Đời Sống Mới ký tên Tân Sinh đã khiến áo dài không còn là trang phục của phụ nữ Việt cho đến 1976. Cuộc Nam Tiến của bộ đội cụ Hồ khác hẳn với Phở và áo dài vì có cả triệu người chết trong “20 năm nội chiến từng ngày”.
    Điều này cho thấy cái ăn, cái mặc không tồi tàn. Quí lắm. Nhất là đối với những người phải lâm cảnh đói rét quanh năm suốt tháng. Có thực mới vực được đạo. Trong tứ khoái của đời người cái ăn đứng đầu. Lê Hùng, ký giả của Việt Nam Thông Tấn Xã của VNCH, sau 1975 bị đi tù cải tạo, trong bài Lưu Đày Tận Miền Bắc, đăng trong tập VN Ký Sự cho thấy rõ về nhu cầu ăn uống .
    Tập san phát hành tại Minneapolis năm 1983, Ký giả Lê Hùng viết  "Khi các trại cải tạo ở miền Bắc chưa có chính sách thăm nuôi, hầu như mọi người chỉ nói với nhau về chuyện ăn uống, về các món thực phẩm. Mọi chuyện chính trị, xã hội, tình yêu, đạo lý, tôn giáo chẳng còn ai muốn nhắc tới”.
    Tờ Star Tribune tháng 9 năm 1996 đăng bài của ký giả Judith Weinrauh kể lại chuyện các bà mẹ Do Thái trong cơn đói lạnh, xác xơ; tuy nằm chờ chết trong trại tập trung Terezin ở Đức năm 1944, các bà vẫn cố ghi chép lại các món ăn mà các bà ưa thích, hầu lưu lại hậu thế. Hơn 50 năm sau, con cháu các bà đã cho phổ biến tập thủ bút đó bằng hai thứ tiếng Anh và Đức.
    Cuốn sách nấu ăn đó có tựa đề là ”Di Sản Của Các Bà Mẹ Trong Trại Tập Trung Terezin” (In Memory's Kitchen: A Legacy From The Women of Terezin) của nhà xuất bản Jason Aronson, Inc.  Nhà văn Trung Hoa Lâm Ngữ Đường có lần đã viết “Lòng ái quốc là gì, nếu không là tình yêu những món ngon mà mình được ăn hồi nhỏ?".
Hàng năm kể từ 2013 Liên Hiệp Quốc đều có tổ chức Ngày Quốc Tế Hạnh Phúc. Ngày Quốc Tế Trà thì kể từ năm 2019; Ngày Quốc Tế  Cà Phê từ năm 2014; Ngày Quốc Tế Bia năm 2008.  Còn ngày Quốc Tế Phở chừng nào? Ngày Nào? Bài viết này chỉ nhằm đề nghị với các giới chức và đoàn thể có thẩm quyền nên tìm cách vận động để có một Ngày Quốc Tế Phờ.
    Mùi Phở từ một món thực phẩm đường phố không kích thích vùng lên hay kỳ thị chủng tộc mà chỉ mời gọi, gây khoái khẩu cho thực khách bốn phương. Mong sẽ có ngày cả thế giới nhà nhà cùng ăn Phở; như ăn gà Tây trong ngày lễ hội Tạ Ơn Thanksgiving ở Mỹ. Ngày đó toàn cầu sẽ ngào ngạt mùi  Phở: mùi của dân tộc Việt.
 

– Phan Thanh Tâm

(12/2023, California)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.