Hôm nay,  

Từ cây mít bên mép hố bom

12/01/202400:00:00(Xem: 2622)

goc mit
 
Mấy cái rễ chết khô này là những gì còn lại của cây mít mà tự tay tôi trồng mấy chục năm trước, bên mép một hố bom. Chúng đã theo tôi qua chặng hành trình hơn bảy ngàn cây số từ một vùng quê Quảng Nam đến thành phố lớn nhất của nước Úc.

Thời chiến quê tôi là vùng đất không người và, có lúc, là vùng “tự do oanh kích”. Trở về đó sau tháng Tư năm 1975, khu vườn xưa của tổ tiên đã là một cái rừng rậm, màu xanh chồng lên màu xanh, mấy tầng, mấy lớp với những táng cây cao thấp chằng chịt dây leo, những chùm chìm bìm phủ từ trên xuống và những bụi đơm xôi đầy gai góc cố thủ bên dưới chờ chực cơ hội ngóc đầu lên, chỉ trừ màu đất sét đỏ quạch của cái hố bom sâu hoắm ở góc vườn, dấu tích của một trận oanh tạc cách đó ba năm, trong “Mùa hè đỏ lửa”.

Rồi thì cái hố ấy cạn dần. Đầu tiên là ngói gạch vỡ vụn từ căn nhà cũ đổ nát của tổ tiên mà anh chị em chúng tôi san xuống, sau đó là đất cát bồi tụ theo từng mùa mưa rồi, đến một lúc nào đó, khi cái hố bom đã đầy gần phân nửa, tôi ươm mấy hạt mít chung quanh để từng ngày, từng ngày, chứng kiến chúng nẩy nở, sinh sôi. Mấy năm sau, khi tôi đi xa hẳn, những cây mít ở lại bắt đầu kết trái rồi, mấy năm sau nữa, khi em tôi vào Sài Gòn lập nghiệp, gởi khu vườn cùng căn nhà làm nơi thờ tự trong bàn tay chăm sóc của một người bà con, chúng vẫn kiên trì bấu rễ vào cái hố bom mà ra hoa, cho quả.

Nhưng một thời gian sau nữa, cách đây mấy năm, cây mít của tôi bị bức tử, chết khô.

Nhưng nó không hề đơn độc. Cùng chung phần số là nguyên một hàng cây cao lớn, mạnh khỏe dọc theo ranh giới với khu vườn hàng xóm mà, theo giải thích của những người ở đó, là sự cạnh tranh ánh sáng của trời cùng dưỡng chất của đất từ bàn tay chủ nhân khu vườn liền kề, cái sự cạnh tranh vẫn đều đặn xảy ra ở miền quê thời này bởi thuốc độc giết cây của Trung Quốc đang bán ê hề ngoài chợ.

Tôi nghe lời giải thích này này hai năm trước, khi về quê chịu tang mẹ. Dưới những hạt nước bay bay của cơn mưa phùn tiết Xuân phân trong một chiều nhá nhem tối, tôi đứng ở góc vườn lặng nhìn những cái rễ mít chết khô lầm lũi an phận dưới cái hố bom đã cạn mà thảng thốt nhìn ra bóng dáng khẳng khiu của mình mấy chục năm trước, đang chênh vênh bên bờ mép nghiêng 45 độ của cái hố bom đỏ quạch màu đất sét, cái lưng khòm xuống, cái xẻng cùng mấy hạt mít trong tay… Ngay khoảnh khắc đó tôi nảy ra quyết tâm là, bằng mọi giá, phải mang chúng theo như một chứng vật lịch sử của riêng mình, dạy cho con tôi biết rằng đây là những cái rễ từ cây mít mà tự tay ba đã trồng. Tôi nhễ nhại mồ hôi lôi lên mặt đất. Tôi kỳ cạch rửa ráy, đẽo gọt. Rồi tôi nhờ một người thợ mộc can thiệp lần cuối trước khi sấy khô, tẩy trùng để có thể vượt qua hàng rào kiểm dịch của nước Úc.

Tôi kỳ công như thế bởi đó không chỉ là chứng vật của riêng tôi mà là chung của tất cả chúng ta. Từ dấu tích hoang tàn của sự hủy diệt bằng sức mạnh của một đế quốc, một siêu cường, cây mít đã vươn lên mạnh mẽ, đã đâm chồi kết trái nhưng rồi lại chết đứng giữa trời, như là Từ Hải, chỉ vì thuốc độc của giống bành trướng đang hung hăng háu đá như một thứ chuẩn siêu cường tập tành làm đại đế quốc.

Nếu lịch sử là chuyện đã qua thì chứng vật cho một chặng đời của tôi này còn có thể là “tương lai” của chúng ta, những người cùng chia sẻ cái “đại tự sự” kết tụ từ muôn vàn những câu chuyện lớn nhỏ khác nhau; từ huyền tích trăm trứng trăm con để gọi nhau là “đồng bào” đến những câu chuyện thấp thoáng bóng dáng lẫm liệt của Lữ Gia, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung v.v khi những bậc anh hùng dân tộc này phản ứng trước sức ép của bọn xâm lược phương Bắc.
 
Mà đâu chỉ là những cây xanh, với cái bọn xâm lược này? Cả những con giun hiền lành, an phận thủ thường cày cuốc trong lòng đất cũng bị chúng lập mưu để tàn sát hàng loạt thì đây, rõ ràng, là một sự “truy sát” đối với tương lai. [1]
 
Bởi vậy, từ cây mít, con giun, tôi lại nghĩ về loài nai.

Nai là một trong những nguồn thức ăn ưa chuộng của loài hổ và, sau hàng ngàn năm tiến hóa, chúng vẫn tiếp tục ngờ nghệch làm mồi như một sinh vật mù màu, không nhận ra được màu xanh và đỏ. Dưới mắt nai, cây rừng xanh và da hổ nâu đã hòa lẫn vào nhau trong sắc xám nên, không cần phải ngụy trang, giống hổ chỉ cần bước khẽ và, đợi đến khi xáp lại thật gần, ở khoảng cách chưa tới mười mét, con mồi hiền lành ngơ ngác kia mới phát hiện được mối nguy thì đã quá muộn. [2]

Sau mấy ngàn năm sống chung với với thứ xóm giềng chuyên hành xử bằng luật rừng như thể là chúa sơn lâm, trong đó có một ngàn năm bị đô hộ, vậy mà, đến tận hôm nay, chúng ta vẫn hành xử như một dân tộc bị mù màu. Chúng ta, như đã kể ở trên, vẫn sử dụng thuốc độc của chúng hay chạy theo mấy đồng tiền vặt của chúng để tàn hại chính môi trường và nguồn sống của mình. Nhưng nếu hạng dân ngu khu đen ở dưới bị bệnh “mù màu” thì, ở trên, những chứa tước quyền hành đang bị “chứng” gì khi để những tình trạng như thế xảy ra, hết năm này sang năm khác? Họ, thậm chí, còn cong lưng theo những “dự án chung” và cong lưỡi theo những lời lẽ mỵ dân như là “vận mệnh” và “tương lai chung”?

Nếu có một thứ “vận mệnh” và “tương lai” chung thì đây, chúng đã biểu lộ ngay trong bộ rễ khô quắc từ cây mít bị đầu độc của tôi nên, do đó, cái chứng bệnh trong dấu hỏi trên, rõ ràng, không chỉ là khiếm thị mà là khiếm tư duy.

Nó cách khác, thẳng thắn, là bị đui, bị mù tận trong óc, trong đầu.

Tham khảo:

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky tuyên bố sẵn sàng gặp Tổng thống Nga Vladimir Putin "trực tiếp" tại Istanbul vào thứ Năm để bàn về việc chấm dứt chiến tranh.



NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.