Hôm nay,  

Nỗi nhớ mùa Xuân

17/01/202413:11:00(Xem: 1872)
Tùy bút

bach duong

Ngày  còn nhỏ thích xa nhà

Đi đâu cũng được miễn là được đi.

Lang thang mây chẳng định kỳ,

Có chân không bước ích gì chân ơi

Bây giờ mỏi bước đường đời

Đi đâu cũng chỉ nhớ trời một phương

Cánh hoa gạo đỏ bên đường

Nhớ nhà rưng rức hồn nương mây về…

 

Đọc thơ “nhớ nhà” của Nguyễn Thị Vinh càng thêm nhớ! Ai cũng bảo rằng mùa xuân làm ấm lòng người, nhưng chưa chắc gì. Mùa xuân đó là mùa xuân ở bên ấy, bên Việt Nam họa chăng có ấm lòng, chứ mùa xuân rơi vào tiết mùa đông lạnh lẽo bên trời tây này lạnh vô cùng. Tết ta rơi vào khoảng cuối tháng giêng đầu tháng hai dương lịch, là giữa mùa lạnh, trời xám và không gian có lúc muốn đặc quánh lại. Bước ra khỏi nhà đi làm, tôi ngại cái ngại ngùng dâng thêm khi hơi thở thoát ra khỏi miệng mũi biến thành khói. Cái khăn quàng len dầy, rộng và ấm vẫn không cản nổi hơi lạnh lất phất tạt vào mặt. Tôi đợi xe bus, chỉ năm phút nữa xe đến, tôi sẽ được ung dung ngồi trên nệm xe êm ấm mặc tình ngó ra đường. Qua cửa kính là hàng cây trơ trụi lá, là những bộ hành khoác áo lạnh co ro. Tôi sung sướng ngó ra ngoài không gian mênh mang, không gian như còn ngái ngủ, giấc ngủ đông hàn, thời gian này tôi hoàn toàn được nghỉ ngơi, chân tay không múa may để muốn làm một công việc gì. Xe ngừng. Đèn đỏ. Một con chim se sẻ còn lạc lõng bên bãi cỏ úa bay vút lên. Một cụ già tây khoác áo bành tô đi chậm chậm sang đường, tay chân run run và lưng còng xuống dưới sức nặng thời gian. Tôi chợt nghĩ tới mẹ già ở xa, bên nhà. Mẹ tôi chưa già đến nỗi lụ khụ nhưng đã bước vào tuổi già lâu rồi, tuổi 78, 80, là tuổi thập thò miệng lỗ của người Việt Nam. Mới đây mà tôi xa mẹ tôi đã ba mươi năm. Tôi vẫn đinh ninh là ngày mẹ tôi ra đi, chẳng chắc gì tôi về kịp. Còn ngày tôi ra đi, mẹ tôi có viết cho tôi một lá thư dài mang theo đọc giữa đường, thì tôi chưa kịp đọc, lúc chộn rộn đã bị bọn hải tặc ăn cướp lấy đi cùng với gói hành lý, áo quần và chút lương khô. Chuyện này tôi không hề kể lại nên chẳng bao giờ mẹ tôi hay và người cứ đinh ninh là tôi luôn luôn có lá thư của người bên mình, để nương theo mà sống, sống như mẹ tôi căn dặn. Cứ lâu lâu viết thư sang, mẹ lại nhắc nhở: Con có nhớ làm theo những điều mẹ dặn, cái độ mẹ con chia tay đó không? để trấn an người, thư nào tôi cũng nói: Con luôn nghe lời mẹ dậy. Rồi tôi lại nao nao trong dạ, thì ra mình chỉ hứa hão hứa huyền, chứ có bao giờ biết mẹ dậy bảo ra sao đâu tôi cũng có lần trách cái bọn hải tặc, vô ý vô tứ, cướp cả cái thư mẹ tôi viết, nào ích lợi gì cho chúng đâu. Tôi cũng lẩn thẩn tự hỏi sao mẹ tôi không viết gọn gàng như Nhã Ca kể trong truyện ngắn của bà, thì hay hơn biết mấy, viết làm chi một lá thư dài lòng thòng, để rồi mất đi và tôi ân hận suốt cuộc đời, Nhã Ca đã kể truyện ngắn của bà như sau: Hai người yêu thương nhau chia tay, một người ở lại, một người vượt biên. Người ở lại viết cho người đi một tờ thư, để người ra đi mang theo lời nhắn nhủ thân tình. Ra tới giữa biển khơi, thập phần nguy hiểm, cũng sau ít ngày bị giông bão và cướp biển giập vùi, tinh thần sa sút. Người ra đi chợt vô tình thò tay vào túi áo, vô tình đụng phải mẩu giấy thì nhớ ra là thư của người yêu viết. Cô vội rút ra, tờ thơ chỉ vỏn vẹn có hai câu thơ láy theo Xuân Diệu: « Người đi một nửa hồn tôi chết, Một nửa hồn kia đợi lãnh quà ».
    Nhờ giọng điệu ý nhị đó, hoàn cảnh và tâm tư nàng bớt bi thảm phần nào. Sau đó thì nghịch cảnh có tới lui là do số mệnh.
    Nhưng mẹ tôi nào phải thi sĩ hay văn sĩ. Bà chan chứa tình yêu, nhưng mộc mạc giản dị như tất cả các bà mẹ Việt Nam. Bà hỏi tôi chỗ ở người tây có dễ chịu không. Có đông đồng hương không. Cây cỏ có những thứ nào giống bên nhà không. Tôi đã nói với bà là ở đây có đủ thứ, không thiếu một món gì từ món ăn như rau muống, cà pháo, mắm thái tới áo quần, lụa, vải, gấm và các cửa tiệm may áo dài, khăn đóng, bánh hỏi, bánh cốm, bánh cuốn, giò chả. Bà cũng hỏi bên này có trồng được tre trúc, cây kiểng không. Cây gì cũng có, tre trúc thì rất nhiều, ở trong rừng Saint-Germain en Laye người ta trồng hàng hàng lớp lớp. Hiện giờ, thì ở đây, nơi tôi đang sống, đối diện với Saint-Germain en Laye bên bờ sông Marne, các tư gia trồng cây của xứ họ, cây magnolia khá cao lớn, cây glycine thì vắt vẻo… Thỉnh thoảng có xen kẽ một bụi trúc ngà xinh xắn. Cây trúc lúc đầu èo uột, bây giờ đã thích ứng mạnh mẽ và sinh sôi nẩy nở thành bụi lớn thành hàng rào bên xứ tây. Tôi gửi cho mẹ tôi một tấm ảnh chụp bụi trúc trong khuôn viên nhà thờ Chatou, mẹ tôi tấm tắc khen, cái loại tre trúc thât kỳ lạ, nó có thể hiện diện bất cứ chỗ nào trên trái đất, nó cũng vẫn hợp, thân thẳng cành lá thẳng lao xao trong gió, màu xanh cũng tươi mát, ngả màu vàng càng đẹp như lụa. Rồi mẹ tôi hỏi ở bên tây loại cây nào rất tiêu biểu và giữ địa vị thuần thục với đất nước như cây tre cây trúc ở Việt Nam. Tôi thưa với mẹ đó là cây dương, cây bạch dương. Người tây đi xa về tới, cứ thấp thoáng thấy các cây bạch dương ẩn hiện đong đưa vẫy gọi đằng kia là họ mừng lắm: Nhà đây rồi, tới nhà rồi!
    Đường dẫn vào nhà chúng tôi, ở nơi này, thênh thang và có tọa lạc cả một hàng cây bạch dương, rất thoáng mát, rất tây, gió cứ lồng lộng từ dưới lên cao. Phải công nhận cây bạch dương đẹp nhất ở xứ này. Thân cây cao vun vút, cành cây mảnh mai cũng cao vun vút. Nom hùng dũng và giỏi chịu đựng hơn cả cây thông. Cây thông có loại buồn ủ rũ như đứng để tang ngàn đời. Bạch dương cao, thẳng, với cả vòm lá chĩa thẳng lên trời, ban đêm thì thầm tâm sự với trăng sao, ban ngày đối thoại cùng mây gió, nó có thể níu lại những đám mây bạc lởn vởn để tỏ tình âu yếm trên cao.
    Cũng đáng tiếc, khi xưa, còn sinh tiền cụ Nguyễn Công Trứ, cụ đã không trông thấy cây bạch dương để làm thơ. Cây dương không lạnh lẽo, cây dương nồng nàn tình cảm như lòng mẹ yêu con. Khi phong ba nổi lên, lá cây múa loạn reo vui từng hồi như sung sướng vẫy tay rối rít. Gió mạnh hơn chỉ đủ làm cả khối cây nghiêng ngả trong chốc lát, rồi lại đứng thẳng thi gan với thiên nhiên và không hề phàn nàn nhân thế.
    Tôi khoe với mẹ tôi về cây bạch dương, rồi một hôm kia may mắn thay, tôi có một tấm ảnh chụp sát bên rặng dương ở đầu ngõ dẫn vào xóm nhà tôi, bóng cây mùa hè như một cây chổi lau dựng ngược, hai mặt lá xanh và trắng thi nhau lấp lánh. Tôi gửi cho mẹ và viết ở mặt sau: « Chúng như thế đó, ngay lối cổng dẫn vào nhà chúng con, khi chúng con dọn vế đây, chúng mới được trồng. Đã mười năm qua đi, chúng bỗng thi nhau lớn vụt lên. Con yêu hàng cây bạch dương vì chúng rất gần gũi, mỗi khi chúng con làm về, chúng luôn sẵn sàng đón, 10 cây không bao giờ có một cây nào vắng mặt… »
    Mẹ tôi thấy tôi quý chúng nên giả lả khen tíu tít: « Loại cây chi mà đẹp lạ lùng, mọc mạnh và tàn lá gọn gàng, lấp la lấp lánh đến hay. Nó cứng lắm hả? Phải khi xưa mẹ còn nuôi con heo nái mà bên mình có cái cây này, ta bẻ về vài cành, đuổi ruồi đuổi muỗi, treo đong đưa ở cửa chuồng heo thì tốt biết mấy ».
    Đến mùa đông, gần tết ta, thì tôi nói cho mẹ hay là lá bạch dương đã rụng hết rồi, nó chỉ còn là những cành trơ trụi. Mẹ tôi xúc động mạnh khi nghe những cành cây trụi lủi, y những bộ xương khô. Tôi biết, vì người đã gửi cho tôi một tấm thiệp mừng Noël in hình rặng cây khẳng khiu mà nói rằng: « Cây mùa hè là bóng mát che chở, mùa đông là mẹ già cằn cỗi ngủ yên mà không chết con ạ… » Bà không trông thấy hàng cây nhưng bà vẫn có thể nói với tôi thật nhiều chuyện, y thể là những cây dương đó, rơi lả tả lá vào mùa thu, để rồi mọc lại vào mùa xuân là chính do tay bà trồng từ thuở nào, từ tiền kiếp. Ở nơi xa xăm đó, bà tưởng tượng như lúc nào cũng có hàng bạch dương ở gần, ngay tầm mắt và có tôi tươi cười ngả đầu tựa bên vòm lá xum xuê. Bà bảo là bà thấy chúng vô cùng đẹp vì chúng có diễm phúc sống gần một bên tôi, còn bà thì không. Tội nghiệp! Mẹ tôi chấp nhận sống xa lắc xa lơ các con.
    Trong giấc ngủ êm đềm, tôi trở về nhà như mọi ngày, rõ ràng tôi thấy mẹ tôi đứng đợi bên hàng bạch dương, cây lá trắng và xanh lấp la lấp lánh, áo mẹ tôi vàng như nắng chiều và tóc mẹ tôi bới cao hơi bồng bềnh, một vài sợi lưa thưa rơi xuống vầng trán rộng. Mười cây bạch dương vẫn xếp hàng thẳng tắp, chúng đứng sẵn đó như bao giờ, đợi chờ, không thiếu một cây.
 

– Chúc Thanh

Mùa Xuân rất nhớ, Paris lập đông, Xuân Giáp Thìn

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.