Hôm nay,  

Tết sắp về, tôi lại nhớ Tết xưa

19/01/202400:00:00(Xem: 2602)

tet sap ve
Hình minh họa
 
Sau dịp lễ Noel là không khí tháng chạp lấp ló đầu ngõ rồi! Thời tiết mùa đông lạnh lẽo đã dần nhường chỗ cho gió xuân về mơ màng trong sương sớm. Khoảng mùng 5 tháng chạp là mọi người đi tảo mộ đông vui. Đươc gặp bà con, họ hàng nội ngoại chào nhau tíu tít sau một năm tất bật là thấy tết đã sắp sửa cận kề. Tết không chỉ là niềm trông đợi của trẻ thơ mà còn là niềm vui của người lớn. Xưa chừ người ta thường nói vui như tết mà!
  
Khi hoa mai, hoa đào bắt đầu điểm lác đác vài nụ là mùa xuân đã về! Lòng người phơi phới sau một năm bề bộn nhưng vui nhất có lẽ là trẻ thơ và là thời thơ ấu của chúng ta mà ai cũng đã từng qua.
  
Sau 23 tháng chạp lễ đưa ông táo về trời là thấy không khí tết đã dịch chuyển tới rất gần. Nhà nhà lo sơn sửa trang trí lại cho tươm tất. Các chậu bông được bưng từ chợ hoa về sắp trước hiên nhà để khoe sắc cùng với cây mai vàng. Cây mai có lẽ được trồng từ nhiều năm trước, khi tôi sinh ra đã thấy chúng đứng đó im lìm thong thả chờ mỗi năm chỉ có một lần nở hoa. Trước đó cả tuần ông nội tôi đã trảy lá để canh cho mai nở đúng vào dịp tết.
  
Cảm giác chờ tết của con bé con 5 tuổi là tôi, qua mỗi ngày xé một tờ lịch là tết xích lại gần thêm chút nữa. Nôn nào chờ ngày tết. Và chỉ khi nào mặc đồ mới thì tết mới thực sự ùa vào nhà mình. Thật hân hoan trong bộ quần áo mới vui sướng thấy mình có vẻ lớn thêm chút nữa. Dù bộ áo quần có khi bị dài tay có khi hơi bị rộng nhưng bà tôi bảo:
  
– Không sao! Ít bữa nữa sẽ chật ngắn cũn cỡn chừ đó! “Con nít may ra mụ tra may vào” mà!
  
Còn tôi kệ! Dài rộng không quan trọng miễn đồ mới là đẹp rồi! Ngày tết tôi được theo người thân đi thăm họ hàng nội ngoại, đi chơi đây đó, được ăn các món ngon ơi là ngon với đủ thứ mứt bánh các loại, phong phú. Đến nỗi đi nhà nào cũng bày dọn la liệt, gặp ai cũng nở nụ cười tươi rói, niềm nở tay bắt mặt mừng. Mọi người chào nhau năm mới, chúc sức khỏe, an lành và những điều tốt đẹp đến với mọi nhà. Nhìn ai cũng thấy tươi hơn ngày thường. Tết người lớn cũng diện lắm nha chứ không phải chỉ trẻ em đâu. Ông nội tôi bình thường chỉ mặc bộ áo thâm mà tết cũng lấy bộ áo dài khăn đóng bằng gấm có bông chữ thọ màu xanh rin ra mặc. Ông bảo tôi:
  
– Đợi ông mặc bộ đồ vía rồi bé con đi thắp hương trên mộ ông bà cố với ông nghe!
  
Tôi vui vẻ lon ton đi cùng ông. Ông nội tôi cao 1m7 đi một bước, tôi phải chạy ba bước mới kịp nhưng vui, cứ lúc thúc theo sau lũn cũn như nụ nấm. Có lẽ nhờ vậy tôi tập cái tánh nhanh nhẹn sau này. Bà nội và ba mẹ tôi cũng vậy, tết cũng soạn đồ đẹp ra mặc, phụ nữ thì có kèm theo trang điểm kỹ hơn ngày thường đi làm. Vì vậy tết tôi thấy dường như mọi người đều đẹp hơn lên!
  
Tết là bàn thờ tổ tiên được gia đình chú trọng nhiều nhất. Từ rằm tháng chạp, bộ lư đồng đã được đánh bóng. Màu đồng xỉn và cũ được thay bằng màu vàng sáng loáng mới keng. Các bức ảnh của tổ tiên và những người đã khuất được đặt trong các khung ảnh cẩn xà cừ và phủ khăn lụa điều phía sau. Bên cạnh có hai bình bông và các quả bồng đơm chuối và các loại trái cây khác. Tết mua gì thì mua chứ nhất định phải có nải chuối thật đẹp với dãy trái đều tăm tắp, có thế đẹp, trái cong dựng lên, còn tươi xanh. Trên nải chuối có thể đặt một trái thanh long to, màu hường hay trái bưởi dựng lên cho quả bồng thêm đẹp. Kế đó đặt khay ngủ quả có mảng cầu, dừa, đu đủ và xoài…bông đơm có thể hoa ly vàng, lay ơn đỏ, hoa cúc đại đóa màu vàng tươi. Bày dọn tiếp theo là hai tầng bánh cộ (bánh in) gói trong giấy kính đủ màu sắc xây thành hình tháp có buộc nơ ruy băng trông có duyên. Những bình cúc vàng, cúc họa mi hay vạn thọ thường đơm ở am, bếp và cúng ngoài sân kèm theo vàng mã nhang đèn ở chiều 30 tết hay giao thừa,…
  
Đi chợ tết cũng là một thú vui như đi hội. Bình thường chợ đã tấp nập người mua kẻ bán rồi nhưng mà chợ tết tính từ rằm trở đi thì người đâu mà đông vậy không biết, cứ chộn rộn cả lên. Kẻ bán người mua đông gấp bội so với ngày thường. Nhất là các dãy bán trái cây, chuối cúng, các loại hoa bày ra đầy cả lối đi, tràn ra cả ngoài đường, các lối dẫn vào chợ. Các dãy bán nem chả, cau trầu, gà vịt làm sẵn cũng nhiều hơn mọi khi.
  

Từ khoảng 27-28 tháng chạp tết là đã gói bánh chưng, bánh tét. Bà nội tôi ngâm nếp và làm nhụy bánh bằng đậu xanh và thịt trước, sẵn cho ông gói bánh. Ông tôi gói bánh tét và bánh chưng rất đẹp. Không cần khuôn mà cứ đều tăm tắp, gọn gàng. Lúc gói không quá chặt tay cũng không quá lỏng tay. Mọi thao tác cứ như lập trình vừa phải. Rồi ông buộc dây lạt giang ràng rịt ngang dọc, có dây xách. Hình như có sự thỏa thuận ngầm hay sao mà bánh chưng bánh tét là do ông tôi gói còn làm các loại bánh ít lá gai, bèo nậm lọc, nấu cơm cộ, xôi, chè trôi nước … là do bà nội và mẹ tôi đảm nhận. Bắc cái nồi bự nấu bánh bằng củi ngoài vườn. Việc nấu bánh tét, bánh chưng phải thức nguyên một đêm. Trẻ con trong nhà được ngủ khì còn người lớn thay nhau canh củi lửa và chêm thêm nước. Đến gần sáng thì vớt bánh. Ông tôi bảo nấu kỹ vậy bánh mới chín mềm và để được lâu. Khi vớt bánh bao giờ cũng có vài cái dành cho trẻ con! Cảm giác mới bảnh mắt ra được gọi ra xem ông vớt bánh và được mỗi đứa một cái bánh nhỏ, có dây đeo tòng teng nóng hổi thơm nức mùi nếp, múi lá chuối, lá dong. Sung sướng lắm! Chưa ăn vội đâu mà phải xách chạy khoe một vòng trong xóm xem mấy đứa khác đã có bánh như mình chưa! Đứa nào chưa có là nó quay vào nhà hối ba mẹ nó:
  
– Mẹ coi con Bắp có bánh rồi mà nhà mình chưa gói nè, con không chịu đâu, mạ lo gói đi!
  
Rồi thì chúng tôi tụm năm tụm ba chia bánh ăn kèm theo lời dặn:
  
– Tau cho mi ăn trước mai mốt bánh mi chín nhớ chia tau với hấy!
  
Chiều 30 tết gọi là lễ rước ông bà tổ tiên về ăn tết. Bà và mẹ tôi đã làm hai mâm cơm cộ có xôi gà và các loại thức ăn kho nấu khác. Ngoài ra còn làm thêm một số loại bánh như bánh thuẫn, bánh đậu xanh như hình các loại trái cây như trái cà chua, trái ớt, trái khế, trái thơm rất nghệ thuật và có tính thẩm mỹ giống y chang trái cây, nhìn không khác chút nào. Chỉ khi cắn vào mới biết vị ngọt bùi đậu xanh, đường và thêm phụ gia. Cúng ngày 30 tết ông nội tôi áo dài khăn đóng kính cẩn thắp hương rồi lầm rầm khấn vái như nói điều gì đó với tiền nhân và cầu mong ơn trên phù hộ bình yên đến với mọi người. Mùi hương trầm phảng phất dịu nhẹ gợi cảm giác như đang được đón ông bà tổ tiên trở về trong hương trầm nghi ngút. Không khí trong nhà dường như ấm cúng hơn! Ngoài sân có một mâm cúng ngoài trời cho các cô cậu ngoại cảnh và những vong hồn thổ cư hay vãng lai.
  
Đến 11 h 30 đêm 30 là mâm cỗ giao thừa đã được bày dọn xong gồm mâm ngũ quả và các loại mứt bánh, bình bông cúc vàng cùng với nhang đèn, vàng mã… Tôi còn nhớ như in tiếng pháo giòn tan nối tiếp nhau trong xóm nổ đì đùng chào đón giao thừa. Sau này âm thanh đó không còn nữa! Do đã bị cấm để khỏi lãng phí và an toàn cho trẻ con. Tôi còn nhớ có mấy đứa nghịch ngợm thường đi lượm pháo điếc, giấu người lớn rồi ra vườn dồn lại một cục cho nổ có khi nổ toạc cả tay. Sau tết có đứa bỗng thiếu đi nửa ngón tay tiếc ơi là tiếc. Sau này dù không có pháo vẫn làm nên hương vị tết bởi còn nhiều thứ khác đem đến cho ta niềm vui. Nhà nào cũng chưng đèn thắp hương xông trầm cúng cấp thơm cả một vùng.
  
Ngày thường khoảng 9 h tối là tôi đã lăn ra ngủ một mạch cho tới sáng. Nhưng đêm giao thừa tự nhiên không buồn ngủ tý nào mà cảm giác háo hức lâng lâng một niềm vui khó tả. Sắp đến 6 tuổi, cái răng cửa lay lay đôi chút chuẩn bị thay nhưng cố giữ ra tết, chứ đi chơi tết mà sún răng thì bị quở, tụi bạn cười chết. Rút kinh nghiệm tuần trước thằng Tèo con dì Ba thay răng, khi đi ăn chạp. Ai nói gì hay nó cũng cố không cười. Lỡ cười thì đưa tay che miệng lại vậy mà cậu Út vẫn phát hiện ra hỏi:
  
– Tèo hàng tiền đạo của mi mất mô một đứa rồi rứa?
  
Nó ỏn ẻn:
  
– Cậu kệ con!
  
Bắp nghĩ bụng: Sang năm đi học! Tuổi bắt đầu thay răng sữa, đứa nào mà chẳng sún, nên khi trong lớp nhiều đứa sún thì khỏi đứa nào cười đứa nào. Còn chừ là tết mọi thứ đều phải ổn!
  
Sáng mùng 1 Tết, nhờ người xông đất hợp tuổi. Trong xóm có ông chú tốt bụng, ông tôi thường dặn chú qua sớm để đạp đất giùm. Mùng 1 Tết lúc cả nhà xuất hành cũng phải xem hướng nào hợp tuổi gì để năm mới mọi việc hanh thông may mắn!
  
Mới đó mà mấy mươi mùa xuân đã trôi qua với những cái tết thật đầm ấm ở quê nhà. Thời thơ ấu đã lùi vào dĩ vãng. Giờ đây, để phù hợp với nhịp sống thời hiện đại mọi thứ cũng thay đổi theo, không khí tết xưa cũng phôi phai ít nhiều nhưng cứ mỗi độ xuân về lòng tôi lại nao nao hoài niệm về những cái tết đã xa nhưng nó vẫn còn nguyên trong ký ức.
  
Ngược dòng kỷ niệm – lòng chất chứa nhớ nhung!
 
–  Hoàng Thị Bích Hà
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.