Hôm nay,  

Cậu bé 11 tuổi lần đầu tiên nghe được nhờ phương pháp điều trị “gen”

26/01/202400:00:00(Xem: 3333)
 
Capture
Aissam Dam, 11 tuổi, người đầu tiên được điều trị bệnh điếc bẩm sinh bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ, tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia.
  
(New York Times, 23 tháng 1, 2024) Aissam Dam, cậu bé 11 tuổi, lớn lên trong một thế giới im lặng tuyệt đối. Em sinh ra đời đã bị điếc và chưa bao giờ nghe thấy bất kỳ tiếng động nào. Khi sống trong một cộng đồng nghèo ở Maroc, em đã học cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ký hiệu do chính mình phát minh ra và không được đi học.

Năm ngoái, sau khi chuyển đến Tây Ban Nha, gia đình đưa em đến gặp một chuyên gia về thính giác, người đã đưa ra một gợi ý đáng ngạc nhiên: Aissam có thể đủ điều kiện tham gia thử nghiệm lâm sàng sử dụng liệu pháp gen.

Vào ngày 4 tháng 10, Aissam được đưa đến điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia, trở thành người đầu tiên được điều trị bằng liệu pháp gen ở Hoa Kỳ cho bệnh điếc bẩm sinh. Mục đích là cung cấp cho em thính giác, nhưng các nhà nghiên cứu không biết liệu phương pháp điều trị này có hiệu quả hay không, và nếu có thì em sẽ nghe được bao nhiêu.

Việc điều trị đã thành công, đưa một đứa trẻ chưa từng biết gì về âm thanh đến với một thế giới hoàn toàn mới.

“Không có âm thanh nào mà con không thích,” Aissam nói với sự trợ giúp của phiên dịch viên trong một cuộc phỏng vấn vào tuần trước. “Tất cả đều hay.”
Cùng với hàng trăm triệu người trên thế giới phải sống với tình trạng mất thính lực, Aissam nằm trong số những người bị điếc bẩm sinh. Bệnh của em là một dạng cực kỳ hiếm, gây ra bởi đột biến ở một gen di truyền duy nhất, otoferlin. Chứng điếc vì gen Otoferlin ảnh hưởng đến khoảng 200,000 người trên toàn thế giới.

Mục tiêu của liệu pháp gen là thay thế gen otoferlin bị đột biến ở tai bệnh nhân bằng một gen có khả năng hoạt động.

Mặc dù sẽ mất nhiều năm để các bác sĩ ghi danh chữa trị cho thêm nhiều bệnh nhân - và những bệnh nhân trẻ hơn - để thử nghiệm thêm về liệu pháp này, nhưng các nhà nghiên cứu cho biết rằng kết quả thành công đối với những bệnh nhân như Aissam có thể dẫn đến các liệu pháp gen nhắm vào các dạng điếc bẩm sinh khác.
 
Cuộc điều trị thử nghiệm cho Aissam là một trong năm thử nghiệm đang được tiến hành (các cuộc thử nghiệm chữa trị khác hiện đang xảy ra ở Trung Quốc và Châu Âu).

Các nhà nghiên cứu từ cả năm cuộc thử nghiệm sẽ trình bày dữ liệu của họ vào ngày 3 tháng 2 tới tại cuộc họp của Hiệp hội Nghiên Cứu Tai Mũi Họng.  Các nhà nghiên cứu cho biết, các nghiên cứu này đánh dấu một biên giới mới cho liệu pháp gen giúp chữa khỏi bệnh mất thính lực.

Tiến sĩ Chan cho biết: “Chưa bao giờ có một phương pháp sinh học, y tế hay phẫu thuật nào có thể điều chỉnh những thay đổi sinh học tiềm ẩn khiến tai trong không hoạt động”.

Mặc dù đột biến otoferlin không phải là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bệnh điếc bẩm sinh, nhưng có lý do khiến nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu nghiên cứu nó. Tiến sĩ John A. Germiller, bác sĩ tai mũi họng, người đứng đầu nghiên cứu CHOP cho biết chữa trị bệnh điếc bẩm sinh theo liệu pháp gen này là một ích lợi gặt hái được. Gen otoferlin bị đột biến sẽ phá hủy một loại protein trong tế bào lông cần thiết của tai trong sử dụng để truyền âm thanh đến não. Cùng với nhiều đột biến khác gây điếc, tế bào lông sẽ chết khi còn nhỏ hoặc thậm chí ở giai đoạn trong bào thai. Nhưng với bệnh điếc otoferlin, tế bào lông có thể tồn tại trong nhiều năm, có đủ thời gian để thay thế gen khiếm khuyết bằng liệu pháp gen.

Có một lợi ích trong việc sử dụng liệu pháp gen để cho phép trẻ nghe được - hầu hết các đột biến ảnh hưởng đến thính giác - có khoảng 150 đột biến - không ảnh hưởng đến bất kỳ bộ phận nào khác của cơ thể. Một số gen thực sự chỉ có ở tai.

Manny Simons, giám đốc điều hành và đồng sáng lập của Akouos và phó giám đốc thâm niên về liệu pháp gen của Lilly, cho biết tai trong là một khoang nhỏ kín, do đó liệu pháp gen được đưa vào đó sẽ không ảnh hưởng đến các tế bào ở các bộ phận khác của cơ thể.

Nhưng việc đưa gen đến ốc tai, một khoang hình xoắn ốc nằm gần trung tâm hộp sọ, là một thách thức. Ốc tai chứa đầy chất lỏng, được lót bằng 3.500 tế bào lông và được bọc trong một vòm xương dày đặc với một màng tròn nhỏ. Âm thanh tạo ra một làn sóng chất lỏng trong ốc tai và kích thích các tế bào lông truyền tín hiệu đến não. Mỗi sợi tóc phản ứng với một tần số khác nhau, giúp con người có thể nghe được sự phong phú đa dạng của âm thanh.
Liệu pháp gen bao gồm một loại virus vô hại mang theo gen otoferlin mới trong hai giọt chất lỏng được tiêm một cách khéo léo dọc theo chiều dài của ốc tai, đưa gen đến từng tế bào lông.

Tuy nhiên, bất chấp hứa hẹn về liệu pháp gen otoferlin, việc tìm kiếm bệnh nhân phù hợp cho thử nghiệm vẫn rất khó khăn.

Một vấn đề khác là ý tưởng điều trị bệnh điếc. Tiến sĩ Robert C. Nutt, một bác sĩ nhi khoa ở Wilmington, N.C., chuyên về người bị điếc, cho biết: “Có một cộng đồng người điếc không thấy mình cần được chữa trị.

Ông nói thêm, một số cha mẹ điếc đã ăn mừng khi kết quả kiểm tra thính giác của đứa con sơ sinh của họ cho thấy đứa trẻ cũng bị điếc và vì vậy có thể trở thành một phần của cộng đồng của họ.

Một điều khác khiến liệu pháp gen trở nên phức tạp hơn nữa là việc sử dụng biện pháp can thiệp đối với chứng mất thính lực otoferlin: cấy ốc tai điện tử. Thiết bị sử dụng các điện cực để kích thích dây thần kinh thính giác ở tai trong, cho phép bệnh nhân nghe được âm thanh, đặc biệt là những âm thanh cần thiết để hiểu lời nói. Nhưng thiết bị cấy ghép không cung cấp đầy đủ âm thanh phong phú - và được cho là hỗ trợ thính giác nhưng không phục hồi hoàn toàn thính giác.
 
Hầu hết trẻ sinh ra bị điếc otoferlin đều được cấy ốc tai điện tử khi còn nhỏ và do đó không đủ điều kiện tham gia thử nghiệm. Việc cấy ghép phần nào làm thay đổi ốc tai, điều này có thể cản trở việc giải thích kết quả liệu pháp gen.
 
Cơ Quan Quản Lý Thực Dược Phẩm FDA, nơi cho phép nghiên cứu CHOP tiếp tục, đã yêu cầu rằng, vì lý do an toàn, các nhà nghiên cứu bắt đầu với trẻ lớn hơn chứ không phải trẻ sơ sinh và chỉ điều trị một tai.
 
Thách thức đối với nghiên cứu này ở Hoa Kỳ là việc tìm ra những đứa trẻ lớn hơn có cha mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu, những đứa trẻ bị điếc bẩm sinh vì gen otoferlin và chưa được cấy ghép ốc tai điện tử.
 
Aissam chưa bao giờ cấy ghép ốc tai điện tử. Em chưa bao giờ được học ở Maroc để giúp em phát triển kỹ năng giao tiếp. Nhưng ba năm trước, khi em lên 8, cha em, Youssef Dam, một công nhân xây dựng, đã tìm được việc làm ở Barcelona, Tây Ban Nha. Lần đầu tiên, Aissam đến trường khi cha em ghi danh cho em vào trường dành cho người khiếm thính, nơi em học ngôn ngữ ký hiệu tiếng Tây Ban Nha. Ngay sau đó, gia đình em biết đến cuộc thử nghiệm liệu pháp gen.
 
Khi Aissam được coi là đủ điều kiện trở thành bệnh nhân số 1, em và cha của em được Nghiên Cứu Lilly tài trợ và đưa đến sống ở Philadelphia trong bốn tháng, trong khi Aissam được điều trị bằng liệu pháp gen và sau đó kiểm tra, theo dõi thính giác của em.

Bác sĩ Simons nói rằng không ai biết liệu các tế bào thần kinh giao tiếp với tế bào lông của ốc tai có còn nguyên vẹn và hoạt động ở người bị điếc 11 năm hay không. Cũng không biết rõ cần phải thay bao nhiêu gen mới vào tai. Tất cả mọi nghiên cứu trước đây đều dựa vào nghiên cứu với chuột. “Chúng tôi hoàn toàn mù tịt,” bác sĩ Germiller nói.

Các bác sĩ cho biết kết quả của Aissam rất đáng chú ý. Trong một cuộc phỏng vấn tại CHOP, cha anh nói thông qua một thông dịch viên - ông sử dụng ngôn ngữ Bắc Phi của gia đình Amazigh, thường được gọi là Berber - rằng Aissam đã nghe thấy tiếng ồn giao thông chỉ vài ngày sau khi điều trị. Khi Aissam đi kiểm tra thính lực hai tháng sau đó, thính giác của em ở tai được điều trị gần như bình thường.
 
Nhưng cho dù liệu pháp gen có hoạt động tốt đến đâu thì các nhà nghiên cứu cũng nhận ra rằng Aissam có thể không bao giờ hiểu hoặc nói được một ngôn ngữ, Tiến sĩ Germiller nói. Ông giải thích: Bộ não có một cửa sổ hẹp để học nói bắt đầu từ khoảng 2 đến 3 tuổi. Sau 5 tuổi, cơ hội học ngôn ngữ nói sẽ vĩnh viễn đóng lại.
 
Ông lưu ý rằng thính giác vẫn có thể giúp ích cho bệnh nhân ngay cả khi họ chưa bao giờ học nói. Họ có thể nghe thấy tiếng xe cộ hoặc biết khi nào ai đó đang cố gắng liên lạc. Khả năng nghe cũng có thể giúp họ đọc qua môi.
 
Giờ đây, liệu pháp gen đã được chứng minh là an toàn đối với Aissam và đối với một đứa trẻ khác ở Đài Loan được điều trị sau anh hai tháng, các nhà nghiên cứu tại bệnh viện ở Philadelphia có thể chuyển sang những trẻ nhỏ hơn. Hiện có hai người xếp hàng, một cậu bé 3 tuổi đến từ Miami và một bé gái 3 tuổi đến từ San Francisco, cả hai đều được cấy ốc tai điện tử chỉ ở một tai để chiếc còn lại có thể được điều trị bằng liệu pháp gen.
 
Tiến sĩ Margaret A. Kenna, bác sĩ tai mũi họng tại Bệnh viện Nhi Boston và giáo sư tai mũi họng Harvard, cho biết nếu thử nghiệm liệu pháp gen otoferlin của Lilly được chứng minh là hiệu quả và an toàn thì “sẽ có rất nhiều sự quan tâm đến các gen khác” gây ra bệnh điếc.
 
Vào một buổi sáng lạnh trời se lạnh, Aissam ngồi trong phòng họp ở CHOP và với sự giúp đỡ của ba phiên dịch viên, em đã kiên nhẫn trả lời các câu hỏi về trải nghiệm đáng chú ý của mình.
Em là một đứa trẻ trang nghiêm với khuôn mặt tròn và đôi mắt nâu to. Em cho biết ban đầu tiếng ồn và giọng nói khiến em sợ hãi. Nhưng sau đó, khi thế giới âm thanh mở ra, em bắt đầu tận hưởng mọi âm thanh mình nghe được - tiếng thang máy, giọng nói, tiếng kéo cắt tóc em ở tiệm hớt tóc.
 
Và còn có âm nhạc, thứ mà em nghe thấy lần đầu tiên vào một ngày nọ khi đang cắt tóc.
 
Khi được hỏi liệu có âm thanh nào mà em đặc biệt thích không, “tiếng người,” em trả lời không ngần ngại.
 
Việt Báo dịch
 
(Tin từ báo New York Times, ngày 23 tháng 1, 2024, https://www.nytimes.com/2024/01/23/health/deaf-gene-therapy.html)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều phụ nữ không nhận ra rằng những ly rượu, ly bia mà họ thường uống cùng bạn bè, hoặc để thư giãn trong “giờ nhậu của mẹ” (wine mom moment, một số bà mẹ thích nhâm nhi vài ly rượu hoặc lon bia để thư giãn sau khi bận rộn chăm sóc con cái và gia đình) có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Tuy điều này có vẻ không vui, nhưng lại là sự thật: Rượu, bia thực sự có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.
Cảm giác từ việc bẻ các khớp ngón tay cho kêu rôm rốp có thể rất khác nhau tùy theo từng người. Có người thấy rất ‘đã,’ thậm chí là bị ghiền, cũng có người thấy khó chịu hoặc sợ hãi. Dù việc bẻ khớp thường được nhiều người coi là một thói quen không tốt, nhưng nếu có thể hiểu được cơ chế hoạt động đằng sau việc bẻ khớp, ta sẽ hiểu tại sao lại có nhiều người ‘ghiền’ đến vậy.
Cael là một thiếu niên 15 tuổi bình thường – cho đến khi cậu được phát hiện có cột sống bị cong vẹo bất thường. “Em cảm thấy mình giống như Thằng Gù ở Nhà thờ Đức Bà vậy đó,” Cael nói với CBC News, nhớ lại quãng thời gian hai năm chờ đợi để được phẫu thuật cột sống, đầy cảm xúc và khốc liệt, và trong thời gian đó, đường cong cột sống của cậu đã phát triển lên tới 108 độ.
Vào những năm 1990, sau khi tốt nghiệp trung học ở Bồ Đào Nha, công việc đầu tiên của Ricardo Da Costa là vận động viên ba môn phối hợp (triathlete) chuyên nghiệp – bao gồm bơi lội, đạp xe, và điền kinh. Trong quá trình tham gia các cuộc thi, một trong những vấn đề lớn nhất mà anh và các vận động viên khác phải đối mặt là các vấn đề về tiêu hóa, nhưng không có ai để tâm hoặc tìm cách giải quyết vấn đề này.
Aspirin nổi tiếng với khả năng giảm đau từ các cơn đau cơ và đau đầu; giúp giảm sốt; và liều lượng thấp có thể làm loãng máu, giảm nguy cơ đông máu gây đột quỵ và đau tim. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới phát hiện ra rằng Aspirin cũng có thể giúp ngăn chặn sự phát triển của ung thư ruột kết
Tháng 4 năm 2024, một phụ nữ ở Sacramento, California, Mỹ bị ngộ độc chì nghiêm trọng và tử vong sau khi sử dụng thuốc mỡ trị trĩ của Việt Nam có tên “Cao Bôi Trĩ Cây Thầu Dầu”. Thử nghiệm thuốc mỡ bôi trĩ này cho thấy nó chứa 4% chì (cứ 100 gram thuốc thì có 4 gram chì), đây là lượng rất nguy hiểm. Chì là một chất kim loại nặng độc hại cho cơ thể. Tiếp xúc với bất kỳ lượng chì nào cũng có thể gây hại cho sức khỏe.
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.