Hôm nay,  

Đi chơi Chùa Hương – Tuyến Chùa Hương Tích, Chùa Tiên, Chùa Giải Oan, Đền Chấn Song

23/06/202420:47:00(Xem: 2216)
Truyện


huong

Chúng tôi cùng cười vui vẻ tìm đường ra khỏi cổng chùa Thiên Trù tức “chùa Ngoài” để rồi tiếp tục cuộc hành trình vào chùa Hương Tích tức “chùa Trong”. 
      Vừa ra khỏi cổng chùa Thiên Trù, tôi mời mọi người vào một quán cơm bên lề đường ăn bữa trưa cho no bụng rồi mới tiếp tục lên đường. Cơm nước xong, chúng tôi đi thêm được một quãng ngắn dốc núi đá gồ ghề. Tôi ghé vào gian hàng mua cho mỗi người một cây gậy tre để chống và riêng cho Mơ một đôi dép cao su màu trắng hiệu “con hổ” ta thường thấy bán trong các chợ ở Hà Nội. Mơ nhất định từ chối không nhận đôi dép. Tôi phải lên mặt giận Mơ mới chịu xỏ chân đi đôi dép ấy. 
      Đường đá gồ ghề, chỉ cần lơ là, không cẩn thận là bị hụt chân hay vấp ngã. Đường đi càng ngày càng nhỏ lại, càng ngày càng dốc cao. Chúng tôi băng được hai đoạn dốc nên cũng đã thấm mệt. Mơ đi với Uyên phía trước bỏ tôi và Thi lại phía sau. Tôi đi bên Thi để giúp đỡ nàng khi cần. 
      Tôi và Thi đi thêm đoạn ngắn nữa thì thấy Uyên và Mơ đã đứng đợi chúng tôi bên gốc cây hoa đại già bên đường. Mơ đề nghị:
      - Các anh chị nghỉ mệt một tý rồi chúng ta vào chùa Tiên.
 
blank
Chùa Tiên với tượng bà Chúa Ba (*)
 
Nhìn theo đường chim bay, chùa Tiên coi như kế cận chùa Thiên Trù mà khi đi thì lại phải leo tới hai cái dốc. Đứng tại sân chùa Thiên Trù ta có thể thấy người leo dốc để vào chùa Tiên. Và khi đứng tại cửa động chùa Tiên, ta có thể thấy toàn cảnh quần thể chùa Thiên Trù nằm ở phía dưới, cùng một vùng khá rộng gồm núi và thung lũng xung quanh.
      Chùa Tiên nằm bên trong động Tiên Sơn. Động Tiên Sơn không sâu lắm cũng không rộng lắm, nhưng có vẻ bề thế. Thạch nhũ bên trong động đẹp và có nhiều hình thù phong phú. Chùa Tiên có lẽ cùng xây dựng đồng thời với chùa Thiên Trù và chùa động Hương Tích. Một bài thơ Nôm khắc trên đá gồm tám câu theo thể thơ Đường của Tĩnh Vương Trịnh Sâm đề năm Canh Dần (1770) để ca tụng vẻ đẹp của chùa. Như vậy là khi đó, động Tiên Sơn đã có và đã là nơi thờ phượng đẹp đẽ rồi.
          Chùa Tiên mơ nở trắng
          Khe động lách mình vào
          Ngẩng đọc thơ chúa Trịnh
          Chữ cũ dường lao xao.
          (Trích “Đi Chùa Hương” của Phạm Hổ)
Sau khi rời khỏi động Tiên, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Gió mát và cảnh vật đẹp chung quanh không đủ làm chúng tôi quên cái mệt của leo dốc núi. 
          Lên cao, lên cao mãi
          Chân mỏi tưởng đường xa
          Đỉnh cao ngoái nhìn lại
          Chùa Tiên vẫn cạnh ta.
          (Trích “Đi Chùa Hương” của Phạm Hổ)
Đường núi đá càng ngày càng dốc, có khi phải leo đến cả trăm bậc đá. Bây giờ chúng tôi mới thấy cái tiện dụng của chiếc gậy chống. Nó giúp chúng tôi leo núi vừa đỡ mệt và bước đi vững chãi hơn nhiều. 
      Đường đã có những chỗ cheo leo, chênh vênh nguy hiểm, một bên là vực, một bên là triền núi. Tôi đi sát bên Thi để có phản ứng kịp thời, phòng khi Thi bị trượt chân hay vấp ngã. 
      Tới một con dốc ngoặt, tôi bảo Thi dừng lại để nàng nghỉ mệt. Đứng bên Thi, cùng dựa lưng vào vách đá để thở, nhìn “thung mơ” phía dưới chân núi, dù mệt nhưng vẫn thấy nó đẹp làm sao. Cảnh trí vừa hùng vĩ vừa rất nên thơ. Cây cỏ một mầu xanh tươi. Núi đứng sừng sững mà vẫn không vướng mắt. Đứng nghỉ một lúc, tôi hỏi Thi:
      - Em còn mệt lắm không?
      - Thế anh có mệt lắm không? Thi hỏi ngược lại tôi.
      - Anh không mệt.
      - Vậy chúng ta đi tiếp nhé! Thi đề nghị.
      - Ừ! 
      Tôi nắm tay Thi dẫn đi. Hai bàn tay chúng tôi đan vào nhau cùng song bước. Chúng tôi nhìn nhau mỉm cười sung sướng, tràn đầy yêu thương và hạnh phúc. Thỉnh thoảng Thi đi sát vào người tôi, vừa ôm lỏng cánh tay tôi, vừa ngước nhìn tôi với ánh mắt đầy trìu mến và chiêm ngưỡng. Tôi nói chiêm ngưỡng vì Thi đã tin tưởng vào người mình yêu có khả năng che chở được cho mình trong những lúc khó khăn. Tôi cứ cho là như thế và mỉm cười một mình với ý nghĩ đó. Lúc này đường đã xoai xoải dễ đi, thêm vào đó sức thanh niên lại hồi phục nhanh.
      - Này Thi! em có biết mấy câu thơ này không? Đây là tâm sự của cô gái 15 tuổi gặp và thầm yêu một chàng trai trên đường cùng đi trẩy hội chùa Hương. 
          Làn gió thổi hây hây,
          Em nghe tà áo bay,
          Em tìm hơi chàng thở,
          Chàng ơi, chàng có hay?
          Đường dây kia lên giời
          Ta bước tựa vai cười,
          Yêu nhau, yêu nhau mãi
          Đi, ta đi, chàng ôi!
          Ngun ngút khói hương vàng
          Say trong giấc mơ màng
          Em cầu xin Giời Phật
          Sao cho em lấy chàng!
          (Trích “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp)
Tôi vừa đọc xong đến đấy, Thi “véo” nhẹ tôi cười khúc khích:
      - Em không giống cô ấy!
      - Ừ, em không giống, nhưng anh giống!
      Thi lại “véo” tôi thêm một cái nữa, nhõng nhẽo:
      - Anh ghê lắm đó! 
      Tôi hôn nhẹ lên mái tóc Thi. Thi vội ngước lên nhìn tôi hốt hoảng:
      - Đừng anh! Chị Uyên trông thấy thì ngượng lắm!
      Tôi và Thi buông tay nhau tiếp tục bước đi, nhưng bây giờ cả hai chúng tôi đều cảm thấy như quên hết cả mệt nhọc mà chỉ sợ con đường còn lại sẽ trở nên quá ngắn để được đi bên nhau như thế này lâu hơn.
      Chúng tôi tiếp tục đổ dốc xuống con đường bằng phẳng hơn. Uyên và Mơ đang đợi chúng tôi không xa ở phía trước. Thi bỏ tôi, đi vội về phía hai người.
      Thi hỏi:
      - Hai chị có mệt không?
      - Không! Uyên trả lời. Có chị Mơ cùng đi nói chuyện vui nên chị đi nhanh lắm.
      Tôi cũng vừa trờ tới. Mơ lên tiếng:
      - Chúng ta chuẩn bị để vào thăm chùa Giải Oan ở phía trước kia nhé. Tới đó có quán hàng nước, chúng ta nghỉ chân luôn thể.
       Uyên và Mơ tự động tách ra đi lên trên, tôi và Thi thành một cặp đi phía sau. Nhìn khuôn mặt rạng rỡ của Thi, đôi má ửng hồng với đôi mắt sáng thông minh, cặp môi lúc nào cũng đỏ hồng một cách tự nhiên, những hạt mồ hôi còn lấm tấm trên trán với vài sợi tóc dài dính trên đó, tôi buột miệng khen:
      - Đẹp!
      - Ai đẹp?
      - Anh! Tôi trả lời đùa rồi chỉ ngón tay vào mình.
      - Ha! Ha! Anh hỏi chị Mơ đi, chị ấy là người thật thà đấy! 
      Nói xong câu ấy, Thi cười vang. Tiếng cười vang xa làm Uyên và Mơ đi phía trước quay lại nhìn. Thi im ngay. Tiện tay, nàng “véo” nhẹ vào cánh tay tôi:
      - Em ghét anh lắm!
      Con gái thật buồn cười, ai mà hiểu nổi. Thi đang nghĩ gì mà nàng lại nói ra một câu có vẻ “lạc đề” đến thế. 
 
blank
Chùa Giải Oan (*)              Động Tuyết Kình (*)        Am Phật Tích (*)

Chẳng còn mấy bước, chúng tôi đã đứng trước cửa chùa Giải Oan. Mơ cho biết chùa Giải Oan nằm ở quãng giữa đường kể từ chùa Thiên Trù và động Hương Tích. 
      Chúng tôi ngồi nghỉ chân ngay quán nước bên cạnh chùa, uống bát nước chè xanh. Tôi mời Mơ thêm một cốc “nước mơ” màu vàng chanh đựng trong một hũ thủy tinh lớn. Những quả mơ nổi lềnh bềnh trong hũ thủy tinh trông thật hấp dẫn làm sao. Nước mơ là một loại nước giải khát tốt, có dược tính cao. Chúng tôi không quen uống nước này nên sợ bị đau bụng. 
      Chùa Giải Oan ở lưng chừng núi, thấp và dài, có ba cửa uốn cong. Trên cửa chùa có bốn đại tự “Giải Oan khê tự” tức chùa suối Giải Oan. Trước chùa trồng nhiều cây hoa đại cổ thụ. Trong lòng chùa có một khe đá khá rộng như một “bể nước” để chứa nước từ dòng suối qua khe núi chảy vào. Vào mùa nước, bể đầy nước. Khách hành hương ghé vào chùa cầu xin, rồi lấy nước trong bể để uống, rửa mặt hay đem về lấy phước. Vào mùa khô cạn, nhà chùa phải gánh nước đổ vào đấy.
      Mùa mưa, nước đổ như thác từ trên núi đổ ào ào vào chín ngọn suối trước chùa gọi là suối Cửu Long Tuyền hay là suối Giải Oan. Ngay cửa suối có một phiến đá tạc bốn chữ “Kỳ Sơn Thủy Tú”, đó là bút tích của Trịnh Sâm đề năm Canh Dần (1770).
      Truyền thuyết suối Giải Oan được kể rằng (1)
      Bà Chúa Ba tức công chúa Diệu Thiện, công chúa thứ ba của vua Diệu Trang, ở nước Tây Trúc (Ấn Độ), quyết định theo việc tu hành cầu mong đắc đạo. Nhiều phen vua cha ngăn cấm không được bèn ra lệnh phóng hỏa đốt chùa. Bỗng hùm thiêng phóng đến cứu Bà Chúa Ba chạy về núi này.
          Quan quân áp đến xôn xao
          Bỗng đâu mãnh hổ rẽ vào tha đi.
      Từ trên mình hổ bước xuống, Bà để lại dấu chân trên đá, người ta lập một cái am thờ nơi đó gọi là am Phật Tích, còn gọi là động Thanh U. Chỗ bà tắm gội để rửa oan thì thành chùa Giải Oan. Gần chùa Giải Oan có động Tuyết Quỳnh hay Tuyết Kình.

chua
Đền Chấn Song (Đền Cửa Võng)

Từ chùa Giải Oan, chúng tôi đi thêm một quãng nữa thì tới
đền Chấn Song hay đền Cửa Võng. Gọi là đền Chấn Song vì ngay cửa động trông giống như cái cửa sổ có chấn song để bảo vệ động. Còn gọi là đền Cửa Võng vì trước đây, trước cửa động có những loại cây leo kết lại như cái võng.
      Bên trong đền vẫn còn tượng Bà Chúa “Thượng Ngàn” tức bà chúa canh giữ rừng. Tượng bà ngoảnh mặt ra ngoài. Ở đền này thường diễn ra cảnh lên đồng, có hát chầu văn.
      Qua đền Chấn Song, đường đi lại bắt đầu phải leo lên dốc cao bằng những bậc đá xếp. Đường đi càng gần động Hương Tích dốc càng cao. Thi và Uyên cứ đi được một khúc đường thì phải đứng lại nghỉ để thở. Mơ đã mang hộ cho Uyên chiếc ba-lô vậy mà Mơ vẫn cứ đi thoăn thoắt. Tới chỗ khó leo Mơ dìu Uyên vượt qua chỗ ấy.
      Tôi thấy mọi người đã cởi hết áo len tự bao giờ. Trời có những cơn gió mát lạnh của mùa Xuân, tôi vẫn thấy trên mặt Thi lấm tấm đổ mồ hôi mặc dù tôi đã mang ba-lô hộ cho Thi từ con đốc chùa Tiên. Thi phải lấy vạt áo dài để lau. Tôi cố vượt lên nhanh cho kịp Uyên. Mơ dùng nón để quạt, đứng nhìn chúng tôi tủm tỉm cười.
      Chiếc gậy chống lúc này thật đắc dụng, đắc dụng hơn lúc ở khúc đường núi gần chùa Thiên Trù. Tôi nghĩ bụng nếu chúng tôi không có những chiếc gậy này chắc còn phải vất vả hơn nhiều.
          Đường mây đá cheo leo
          Hoa đỏ, tím, vàng leo
          Vì thương me quá mệt
          Săn sóc chàng đi theo
          Me bảo: “Đường còn lâu
          Cứ vừa đi ta cầu
          Quan-thế-âm-bồ-tát
          Là tha hồ đi mau”
          (Trích “Chùa Hương” của Nguyễn Nhược Pháp)

Đến đây, con đường dài đến động Hương Tích cũng đã được thu ngắn lại. Chúng tôi phải leo lên thêm một cái dốc thật cao nữa như một thử thách cuối cùng. Khi vừa tới đỉnh dốc, chúng tôi cùng đứng lại nghỉ chân. Tôi lấy trong ba-lô ra ba chai “nước suối” mang theo từ nhà. Tôi chia cho Uyên và Mơ mỗi người một chai, tôi và Thi uống chung. Vừa leo dốc mệt, lại vừa khát nên không ai từ chối. Uống xong thấy tỉnh cả người. Bây giờ mọi người mới nhìn nhau cười nói. Tôi lấy trái cây đưa cho mọi người nhưng đều bị từ chối trừ Thi lấy một quả quýt, bóc chia tôi một nửa.
      Chúng tôi đi thêm quãng ngắn nữa thì tới cổng vào chùa Hương. Vì chùa Hương nằm trong động Hương Tích, do đó chùa Hương còn được gọi là chùa Hương Tích. Mà chùa Hương là “trọng điểm” của quần thể vùng Hương Sơn gồm cả hệ thống dẫy núi Hương Sơn, sông Đáy, suối Yến và hàng chục hang động, hàng chục chùa chiền hay “chùa động” (chùa trong động) thuộc khu vực rộng chừng 6 cây số vuông này. Vì là “trọng điểm” nên khi ta nói đi xem thắng cảnh hay đi hành hương chùa Hương là ta muốn nói chung đến cả cái quần thể Hương Sơn. Nhưng có cái khác biệt, khi ta đi thăm hết cả quần thể Hương Sơn mà không đến chùa Hương Tích hay động Hương Tích này thì ta chưa có thể nói là ta đã đến được Hương Sơn. Ngược lại, nếu ta chỉ cần đến động Hương Tích không thôi, ta cũng có thể đủ để nói là ta đã đi đến Hương Sơn rồi. 
      Vì cái tính chất quan trọng và đặc thù đó nên tuyến đường từ Bến Đục đến động Hương Tích luôn luôn là tuyến đường chính, mặc dù ta còn hai tuyến đường khác nữa không kém phần ngoạn mục, đó là tuyến đến chùa Hinh Bồng và tuyến đến chùa Tuyết Sơn. 
      Nói đến hội chùa Hương, ấy chính là nói đến sự quần tụ đông đảo của du khách và khách hành hương đến động Hương Tích này đây. Họ đến đây để thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên kỳ thú cũng có, để lễ Phật Bà tức Bà Chúa Ba với lòng thành kính tín ngưỡng cũng có, và đến để cầu xin cũng có. Mặc dù nhiều người đến đây với nhiều mục đích khác nhau, nhưng kẻ đến để cầu xin thì chiếm số đông hơn cả nên hội chùa Hương còn được gọi là “hội Cầu May”.
 
– Nguyễn Giụ Hùng
 
(*) Hình ảnh lấy từ cuốn “Du Lịch Chùa Hương”- Nhà xuất bản Thông Tấn, Hà Nội (2009).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky tuyên bố sẵn sàng gặp Tổng thống Nga Vladimir Putin "trực tiếp" tại Istanbul vào thứ Năm để bàn về việc chấm dứt chiến tranh.



NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.