Hôm nay,  

Na Uy - Xứ Lạnh Tình Nồng

28/11/202415:02:00(Xem: 3323)
Nauy
Hình tác giả gửi.

 

Duyên hội ngộ

Cách đây mấy năm, em tôi đi Na Uy về, đưa cho tôi cuốn Viết & Đọc. Nói, của người bạn làm báo gởi tặng. Bởi, nghe em kể, có người chị cũng viết lách. Sau đó, tôi nhận email của Dương Kim, rủ đóng góp bài vở cho Viết & Đọc của Na Uy. 

Tôi gởi tặng Dương Kim tập truyện Bông Hoa Trên Phím. Kim viết thư cám ơn, kể, có đưa tập truyện cho bố đọc, tôi mới biết, Kim là con trai của cố luật sư/nhà văn Dương Kiền. 

Năm nọ, tôi đổi việc, dọn nhà xuyên tiểu bang, từ Berlin về Frankfurt. Còn hai ngày phép, để hoàn hồn sau những tuần lu bù với bàn giao công việc và chuẩn bị “di cư”. Kim viết thư báo tin, gia đình Kim sẽ sang Berlin chơi. Nếu thuận tiện, hẹn gặp nhau. Quả là có duyên gặp. Sớm hơn, e rằng tôi không thể thu xếp được. Trễ vài ngày, tôi đã gồng gánh rời “kinh đô” về “quê”. Thế là chúng tôi có dịp dàn hàng chụp hình dưới cổng thành lịch sử Brandenburger Tor. Sau buổi picnic dã chiến, chúng tôi xúm xít ôm những tảng đá trong Tiergarten. Ngày sau, chúng tôi chiêm ngưỡng lâu đài Sanssouci với vườn thượng uyển tuyệt mỹ ở Potsdam, thủ phủ của tiểu bang Brandenburg.

Sau đó không lâu, trên đường đi đến chỗ làm, tôi nhâm nhi cuốn Hoa Tuyết, truyện ngắn các nhà văn Nữ Na Uy do Dương Kim dịch. Tự dưng, tôi cảm thấy Na Uy như thân hơn một chút và nghĩ, mình sẽ đi Na Uy, trong một ngày gần đây.

Tình cờ, em tôi báo tin, ở Oslo có văn nghệ với ca sĩ từ Mỹ qua. Lịch tháng 11 của tôi đã quá bận rộn với hai chuyến đi xa vào đầu và cuối tháng. Nhưng, như có thôi thúc trong lòng, tôi vào mạng tìm vé máy bay. Liên lạc với Kim báo tin, chúng tôi sẽ đến Oslo gần nửa đêm. Vài tin nhắn qua về trên viber, vài thông tin tới lui trên email. Mọi chuyện được sắp xếp đâu vào đó. Khuya thứ sáu, Kim đón vợ chồng chúng tôi ở phi trường Gardermoen. Buốt giá của Bắc Âu là đây. Cỏ cây trắng xóa. Trên đường về nhà Kim, giữa đêm, đèn vẫn sáng choang quanh nhà. Hei Norge, xin chào Na Uy.

Xứ Lạnh

Trong phố không nhiều tuyết, nhưng khá lạnh, khoảng 10 độ C âm. Mặt đường trơn trợt. Đi rón rén từng bước, thế mà phu quân của tôi vẫn chụp một rổ ếch to tướng.

Kim đưa chúng tôi lên khu trượt tuyết Holmenkollen ở vách núi. Nơi đây có cầu nhảy trượt tuyết lâu đời nhất thế giới. Cầu trượt cao ngất nghểu. Nhìn thôi, đã phát ngợp. Nếu trời trong, từ trên cao có thể thấy thành phố Oslo. Hôm đó, buổi sáng có vài tia nắng mỏng manh, trời xám mù khi chúng tôi lên đến Holmenkollen. Chúng tôi lòng vòng dạo chơi, nhìn xuống toàn cảnh sân vận động phía dưới, trắng xóa những tuyết và tuyết. Băng tuyết bám trắng cây cỏ, trông thật thích mắt, tựa như những hình chụp trong thiệp giáng sinh. Nhà cửa dọc hai bên đường của khu này rất đắt. Đa số, nhà vách gỗ, sơn màu trắng, màu sáng. Các hàng rào cũng bằng gỗ. Có lẽ nhờ vậy, giữa tuyết lạnh, nhà cửa vẫn đem lại cảm giác ấm cúng. Năm nay, nghe nói, hơi lạnh so với những năm trước. Cho nên, nghe tin chúng tôi đến Na Uy vào mùa này, ai cũng nhắc nhở nai nịt kỹ càng.

Đời sống Na Uy khá đắt đỏ so với Đức. Nhưng vẫn “dễ chịu”, vì mức thu nhập cao và hệ thống an sinh xã hội rất tốt. Nhiều năm, Na Uy  là một quốc gia có phẩm chất cuộc sống cao nhất thế giới. 

Sóng Nước Biếc

Mỗi ngày thứ Bảy cho Oslo, chúng tôi chỉ có thể “liếc” sơ một hai danh lam thắng cảnh của thủ đô. Chúng tôi trực chỉ Vigelandsanlegget. Người Việt ở Na Uy gọi nôm na là công viên “xếch-xy”, vì toàn bộ tượng hình ở công viên đều ở trong trang phục chào đời.

Công viên với hơn hai trăm bức tượng đá hoặc đồng của điêu khắc gia người Na Uy Gustav Vigeland. Những bức tượng này là biểu tượng chu kỳ của kiếp người. Từ lúc là một bào thai trong bụng mẹ, lớn lên, già đi. Sinh, lão, bệnh, tử. Bức tượng đồng tạc cậu bé con giận dữ dậm chân có lẽ rất được ưa chuộng nên thỉnh thoảng lại bị “đạo chích” xén đi bàn tay.             

                                    

Đi dạo trong công viên Vigelandsanlegget, trời rét căm căm. Bỗng dưng, tôi nghe tiếng nhạc réo rắt. Một nhạc công phong cầm ngồi giữa băng tuyết, đang chơi bài Sóng Nước Biếc. Thật là tình cờ kỳ diệu. Mới hôm qua, hôm kia, ở Đức, khi chậm chân nghe nhạc công chơi phong cầm ở nhà ga, trí tôi lao xao nhạc điệu bài Sóng Nước Biếc. Bươn bả chạy nhanh cho kịp giờ xe, tôi tiếc, định bụng hôm nào thuận tiện sẽ đến yêu cầu. Hôm nay, ở Oslo, tôi được nghe Waves of the Danube của nhà soạn nhạc người Lỗ-Ma-Ni, Iosif Ivanovici. Lời Việt Sóng Nước Biếc của nhạc sĩ Phạm Đình Chương thật tuyệt vời. Trong cái lạnh cắt da, giữa công viên rộn ràng du khách, tôi mơ màng. 

Một giòng sông sâu cuồn cuộn sóng trôi về nơi đâu

Gió đưa buồm nâu mang tâm hồn vào cõi u sầu

Một vầng trăng nhô rung mình dưới muôn đợt sóng vỗ

Lá trên cành khô đang gieo mình vào cõi mơ hồ

Tôi đứng lại, chân đi không rời. Bạn bè đã lên trước một đoạn xa, quay lại vẫy vẫy tôi. Tôi tần ngần, tiếc rẻ, rảo chân theo cho kịp, trí vẫn vang vang lời ca mượt mà. 



Sóng lớp lớp, sóng lớp lớp, sóng đem nguồn vui

Đang chơi vơi, đang chơi vơi, sóng lan mọi nơi

Khi đau thương, khi yêu đương, thiết tha vô vàn

Sóng dâng trong lòng ta mơ màng

 

Tình Nồng

Nhà cửa ở Na Uy thật dễ thương. Nhà vách gỗ, mùa đông thấy đẹp, mùa hè chắc còn đẹp hơn nữa. Đến người nào, thấy nhà cửa cũng khang trang. Hệ thống sưởi rất hiện đại. Ngoài trời rất lạnh, mà trong nhà vẫn ấm áp dễ chịu.

Chúng tôi về đến nhà Kim đã quá nửa đêm. Chủ nhà chuẩn bị chiêu đãi du khách Đức món ăn khuya. Sau khi ăn món mì xào tôm thịt, chúng tôi tráng miệng ly nước Na Uy. Nước lạnh, mà ngọt như đường cát, mát như đường phèn.

Bước vào nhà, hai vợ chồng  Kim đã cho chúng tôi cảm giác mình là người nhà. Chúng tôi được có hẳn giang sơn riêng, một cái suite, với phòng tắm rất hiện đại, và chắc là rất... hại điện. Buổi sáng, có bún bò, thơm phưng phức, vừa ăn bún bò nóng hôi hổi, vừa ngắm phong cảnh trời đông qua cửa sổ. Lạnh thì lạnh thật, nhưng đẹp quá chừng.  

Kim giống như ông bầu, chở ca sĩ chạy show. Kim đưa chúng tôi đi thăm người đồng nghiệp xưa của Ba tôi. Tôi được nghe bác ôn vài kỷ niệm của bác và Ba tôi thời Việt Nam Cộng Hòa. Bác gái đãi chúng tôi món bánh bột lọc, ăn với nước mắm đặc biệt do chính tay bác bào chế. Gia đình hai bác tiếp đãi chúng tôi thật thân thiết, nồng hậu. Chuyến ghé thăm chớp nhoáng, mà ra về, quyến luyến mãi. Kim tiếp tục chạy xe ngang dọc qua những con đường ngập tuyết của Oslo, tìm cho tôi chị bạn thời Quảng Ngãi. Mấy chục năm gặp lại, vừa chuyện vãn, chị bạn bày nướng bánh kẹp ăn với Brunost, một loại phô-mai màu nâu đặc biệt của Na Uy, làm từ sữa bò, dê, cừu. Thiệt ra không phải ai cũng xơi được món này. Nhưng đã đến Na Uy thì phải thử cho biết chứ. Cũng như món cá hồi phải có trong thực đơn ở đây.

 

Chuyện Bên Lề

Khi quyết định thần tốc đến Na Uy trong cuối tuần rét mướt tháng 11, đâu đó trong góc lòng, tôi có ý mong chàng ca sĩ rủ rê về đây mặc áo the, đi guốc mộc và nghe nàng ca sĩ thì thầm trùng dương vỗ sóng về để đón bước em…

Nơi tổ chức ca nhạc thật ấm cúng, sang trọng với số lượng khách vừa phải. Ca sĩ chịu khó đứng, ngồi, điệu bộ để khách hâm mộ chụp hình chung.

Chàng ca sĩ giới thiệu chương trình, nửa đùa, nửa thật, bảo, phải “câu giờ“, chứ hát đến khuya e không đủ sức. Loáng thoáng có tiếng yêu cầu bài hát quen thuộc. Chàng ca sĩ bảo: “Trịnh Công Sơn muốn tôi hát bài Phôi Pha, tôi hát, sau đó ít lâu, anh ấy qua đời. Tôi gặp anh Trầm Tử Thiêng, anh ấy cũng thích bài này. Bây giờ anh ấy đã ra đi.” Rồi với một giọng tưng tửng (vừa vô tâm, vừa vô duyên): “Đấy, bây giờ ai còn muốn tôi hát Phôi Pha nữa không?” Uổng quá! Chàng ca sĩ ơi! Phải chi chàng cứ lầm lì, mặt nhăn, mày nhó (như vài đức lang quân nhận xét), nhưng chỉ cần cất giọng: Yêu là lòng bâng khuâng, nhớ hay thương một chiều thu vương, thì biết bao “em” thổn thức, tương tư. 

Dạo tôi “lùng” tìm nhạc chàng hát, tôi bắt gặp một trong những bài hát tôi yêu nhất. Nghe chàng thảng thốt: Đừng nhìn anh nữa em ơi, hoa xanh... hương trinh... Tôi hoảng hồn. Kinh khủng quá! Chàng mà cũng hoa xanh! Chàng mà cũng hương trinh! Tôi tắt máy cái rụp, không đủ can đảm nghe chàng... tra tấn. Ngày xưa tôi đã thương giọng ca của chàng. Nhưng chàng hát như vậy, là chàng... đả thương tinh thần tôi. Thôi thì thôi nhé, có ngần ấy thôi, chàng ca sĩ ạ.

Nàng ca sĩ có lẽ chạy nhiều show, hãy còn mệt, không đủ thì giờ ôn bài, nên hát nhạc ngoại quốc là chính. Khi nàng ca sĩ nhộn nhịp Hey hey, set me free, Stupid Cupid stop picking on me… không khí rộn ràng tươi vui. Nhưng chỉ để nhảy lưng tưng, tôi mở nhạc ở nhà cũng được, chứ đâu phải lặn lội đường xa như vầy. Sau đó, theo lời yêu cầu của khán giả, nàng ca sĩ hát vài bài nhạc Việt. Nàng thủ thỉ, sẽ hát bài Sang Ngang Ngăn Cách của Y Vân. Tôi nhăn nhó thầm, bài Sang Ngang của nhạc sĩ khác mà. Nàng nỉ non:

 Thôi nín đi em lệ đẫm vai rồi buồn thương nhớ ơi

....

Em khóc những chiều, anh xót xa nhiều thương cho đàn con.

Tôi giật bắn cả người. Ôi trời! Nàng ca sĩ đành đoạn đem “râu” Bài Không Tên Số 4 của nhạc sĩ Vũ Thành An cắm vào “cằm” bài Sang Ngang của nhạc sĩ Đỗ Lễ. Chỉ là người nghe, tôi đã cảm thấy đau nhoi nhói cho bài hát. Tác giả biết được, buồn biết chừng nào.

Tôi sẽ trở lại Na Uy. Có nhiều bạn bè dễ thương ở chốn đó. Có nhiều phong cảnh đẹp tôi muốn thăm. Nhưng có lẽ tôi không bao giờ đến Na Uy để nghe nhạc như lần này.

Tạm biệt Na Uy

Vợ chồng Kim rất chu đáo, gói những món quà “quê” Na Uy cho chúng tôi: cá hồi hun khói và cá nục đóng hộp. Đây là những món quà rất được dân Đức gốc Việt ưa chuộng.

Mùa hè, Na Uy còn nhiều màn hấp dẫn như đi câu cá ngoài biển, leo núi Preikestolen (Preacher's Pulpit hoặc Pulpit Rock), đến thăm Trondheim, thủ đô ngày xưa của Na Uy.

Một cuối tuần ngắn cho chuyến đi chơi ở Oslo, Na Uy. Nhưng nhiều hứa hẹn cho tình bạn dài lâu. Na Uy, cám ơn những tình thân nơi xứ lạnh đã tặng hai vợ chồng chúng tôi những tình nồng.

            Ser deg igjen, Norge. Tạm biệt Na Uy. Hẹn ngày tái ngộ.


Hoàng Quân

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.