Hôm nay,  

Khánh Trường (1948-2024) người nhiều tài văn hóa và thích đứng đầu gió.

02/01/202500:00:00(Xem: 2992)
Bìa-sách-Nắng-Qua-Đèo-Khánh-Trường
 
Gần đây tôi tới thăm Khánh Trường (KT) nhiều lần ở trong mấy căn nhà đầu đường rất dễ kiếm trong khu mobile home trên đường Bolsa, nhiều lần tới nỗi mỗi khi xe chạy ngang đây thì Ngọc Ánh nhắc: ‘Hay ta vào thăm KT.’

Không được tiếp xúc với KT khi tôi còn ở bên Texas, chỉ liên lạc nhiều khi đã chuyển về Nam CA thôi, lúc KT đã bị lọc thận hàng chục năm rồi. Lần nào tới cũng thấy KT lọc cọc đẩy xe lăn ra mở cửa, với nụ cười hiền trên môi và cái bắt tay rất thân thiết, chí tình. Trong những lần đó, tôi cố ý nắm tay KT thiệt lâu, lâu hơn thời gian cần thiết của những cái bắt tay bằng hữu.

Nhiều khi KT nói với khuôn mặt vui hơn bình thuờng: ‘Lâu quá không thấy ông tới, lúc nầy cũng chẳng thấy  nhiều tên thường ghé tạt qua nữa.’
Câu nói như một lời than.

Tôi để gói quà nhỏ đâu đó trên bàn bếp, KT không nhìn tới cũng không cám ơn, anh coi đây là chuyện bình thường và đẩy xe lăn ra phòng khách cho dễ nói chuyện.

Chuyện cũng không có gì quan trọng, chỉ là bạn bè ai đó đã tới thăm gần đây hay nhắc tới người nào lâu rồi không thấy. Nói tới những người nầy thì KT hứng khởi lên, nhắc về những dật sử của họ để cả hai cùng cười.

Có lần tôi đề nghị, khi có chị Oanh, vợ KT ở nhà, hay là mình cùng ra tiệm ăn món gì đó cho KT cảm nhận không khí sinh hoạt bên ngòai một chút. Và tôi thiệt sự áy náy cùng cảm động khi thấy chị Oanh vất vã đở chồng lên, nâng chưn chồng vô trong trước khi  đóng cửa xe, rồi quay ra sau cốp cẩn thận xếp xe lăn của chồng... Tôi ngỏ ý phụ một tay thì chị nói cứ để chị lo, lâu ngày quen rồi. Tôi cảm thấy trong câu nói toát ra một sự thương yêu và một sự tận tụy đáng kính trong hoàn cảnh khó khăn phải săn sóc chồng của người phụ nữ VN.

Bà chủ quán Song Long thấy chúng tôi vô thì đon đả chào:

‘Chào họa sĩ Khánh Trường, lâu quá không thấy ông ghé.’

KT chỉ mĩm cười gật đầu, hình như người bịnh kiệm lời, thường chỉ giao tiếp bằng những biểu lộ trên khuôn mặt như nụ cười, ánh mắt...

Bà chủ quán nhắc  nhỏ với tôi.

‘Lúc trước còn nhà văn Mai Thảo, hai ông Mai Thảo và Khánh Trường, sống ở chung cư phía trong’, bà vừa nói vừa chỉ ra phía sau, ‘Thường ghé, họ ngồi trong cái bàn gần cửa sau rất lâu, có khi hết buổi sáng luôn, để trưa lại ăn cơm.’

Phải công nhận bà chủ quán có trí nhớ dai thiệt tình. Có phải đây là yếu tố để quán lôi kéo khách hay không?

KT ăn thiệt ít, vài ba đủa thì anh kêu vợ dặn chủ quán cho ‘to go’.

Đó là bữa ăn nhà hàng lần cuối giữa chúng tôi vì nhiều lần tôi muốn mời mà thôi. Hoặc chị Oanh không có ở nhà hoặc KT nằm bẹp trên giường, chỉ đưa tay ra bắt, nhưng không ngồi dậy hay đương ngồi xe lăn như thường thấy.

Những lần như vậy KT than nho nhỏ:

‘Mới đi lọc thận về, còn mệt quá.’

Trong hoàn cảnh như vậy thì khách tốt hơn là rút sớm để chủ nhơn nằm nghỉ, bỏ ý định mời mọc...

Khánh Trường vẻ cho tôi hai ba bìa sách, bìa cuốn ‘Tung Kiu Nam B tôi ăn ý nhứt và nhiều người khen là họ thích sách nầy một phần vì cái bìa có hình Kiều cầm đờn quá đẹp... Sáu bìa ‘Tung Tam Quc Din Nghĩa’ - bộ tuồng gồm 6 quyển- KT đã chọn ra 6 hình trong phim truyện Tam Quốc của Tàu, rất hợp, cũng rất đẹp và bắt mắt.


Những lần nhờ đó, người nhờ thường chỉ cám ơn xuông! Có lần thấy KT ở nhà một mình, cô đơn tuyệt cùng, tôi đưa KT tờ trăm đô, anh không cầm lấy mà chỉ nói: ‘Thôi ông giữ đi!’, trong cái khoát tay,  ‘Giờ tôi không biết làm gì với tờ giấy đó, cũng không biết để đâu và quên giá trị của nó rồi.’

KT đa tài ai cũng biết, anh viết văn thiệt mau, nhiều tình tiết rất hiện thực, vẻ thì thần sầu, đa chủng, đa cách điệu. Nhưng điều ai cũng phục là anh mở đường làm tờ Hợp Lưu  (HL) trong thời gian mà những cây viết ở hải ngoại và quốc nội còn chưa  tương thông và nhiều ngờ vực nhau do ảnh hưởng chánh trị từ nơi mình đương sống. Anh bị tấn công nhiều, kể cả những người từng là bạn bè lâu năm, tờ báo điêu đứng thời gian đầu, người chủ trương phải viết một truyện dài dung tục –  dùng bút hiệu khác dĩ nhiên - để lấy tiền nuôi tờ báo. Nhờ cái dũng khí của người đứng đầu gió mở đường của KT các cây bút bên hai bờ biển đã hiểu nhau rằng:

-Người viết thiệt sự dầu ở hoàn cảnh nào cũng không bẻ cong ngòi bút để bị chánh trị mua chuộc.

-Hiểu rõ hơn sự suy nghĩ của những cây viết còn ở lại và ở đây vẫn rải rác còn những người tài.

- Biết được ở trong nước đương có những tiếng nói văn chương khác với loại văn chương phải đạo đang bao trùm...

Bó đuốc soi đường đó của HL bây giờ - dầu không nói ra nhưng ai cũng biết- đã được đốt lên lần nữa mấy năm nay ở  hải ngoại như Văn Hc Mi (CA, Hà Nguyên Du), Ngôn Ng (Canada, Luân Hoán) và ở trong nước có một tờ mà người viết bài nầy tạm không nói tên.

Ảnh hưởng của HL là ở chỗ đó, dai dẳng đa dạng...

Bộ HL cho tới giờ vẫn là bộ tạp chí hải ngoại nhiều giá trị cùng đứng trong hàng ngũ những tờ báo văn học đáng giá của nền văn chương hải ngoại như tờ Văn (Mai Thảo- Nguyễn Xuân Hoàng), Văn Hc (Nguyễn Mộng Giác), Khi Hành (Viên Linh).

Giờ thì KT đã về trời. Anh nằm xuống bạn bè thương tiếc vì nhiều lý do, trong đó lý do quan trọng nhứt là KT đã để lại nhiều dấu ấn khi xuống tới trái đất nầy làm người Việt Nam, đã đóng góp cho văn  hóa Việt. Tôi ví KT như cánh nhạn qua đầm, khi bay qua vùng trời văn hóa VN đã để lại cái bóng bằng những tác phẩm của mình trong đó như nhiều người tài khác trước đây. Những Nguyễn Du. Những Hồ Xuân Hương. Những Petrus Ký. Những Nguyễn Đình Chiểu. Những Bà Huyện Thanh Quan. Những Tản Đà xa xưa...

Và gần đây là Bình Nguyên Lộc, là Vũ Anh Khanh, là Phạm Duy, là Nguyễn Đình Toàn, là Nguyễn Mộng Giác, là Nguyễn Tất Nhiên, là Mai Thảo, là Nguyễn Xuân Hoàng, là Tô Thùy Yên, là Đinh Cường, là Huy Tưởng, là Bé Ký, là Nguyên Sa...

Những con hạc bay qua đầm để lại dấu ảnh trong nước đầm kể hoài không hết cho thấy sự mãnh liệt của đời sống văn hóa Việt. Nó sẽ trường tồn tôi chắc chắn như vậy.

Thôi bn ta’ yên nghĩ. Cầu đoạn trường kẻ trước người sau thôi.

Tôi gọi KT là ‘bn ta’ lần cuối. Rồi từ nay sẽ gọi bằng chức danh khác thiệt trang trọng: Họa sĩ Khánh Trường của nền văn hóa VN hải ngoại.
 
Nguyn Văn Sâm (Victorville, CA, Dec 30, 2024)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”
Bạn tắt hết điện thoại, truyền hình, bạn gập lại các quyển sách đang đọc. Bạn ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, khóa kín cửa, hay bạn ngồi trên một tảng đá trong rừng, hay bạn ngồi giữa chợ, điều ấy không quan trọng. Bạn không cần phải thực hành bất kì một lễ nghi tôn giáo, yoga hay thiền nào cả.
Một trong những thành tựu quan trọng đáng tự hào của cộng đồng người Việt là sự thành công của những cây bút người Mỹ gốc Việt, kể câu chuyện Việt góp phần vào nền văn học lưu vong Việt Nam cũng như góp mặt vào dòng văn học chính Hoa Kỳ. Bài giới thiệu sách này thuộc loạt bài giới thiệu các tác giả, tác phẩm thuộc dòng văn học thế hệ thứ nhất-thứ hai, trong thời điểm 50 Năm Nhìn Lại, từ biến cố tháng Tư, 1975.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.