Hôm nay,  

Cái tên Khánh Trường!

02/01/202509:03:00(Xem: 3127)
Tưởng niệm Khánh Trường

KTrg
Từ trái: Trần Yên Hòa, Khánh Trường, Thành Tôn.

Thật ra, trước 1975, tôi cũng đã đọc nhiều sách, nhiều tạp san văn học ở Sài Gòn, (hay tỉnh lẻ), tôi chưa đọc đến tên Khánh trường, biết tên Khánh Trường. Tên đó (hay bút danh đó) hoàn toàn xa lạ đối với tôi.

Cho đến, đầu năm 1995, tôi sang Mỹ. Qua Mỹ chân ướt chân ráo, còn lạ lẫm đủ thứ, may nhờ anh Ngô Kỷ, một người học trò cũ của tôi (tôi dạy kèm Ngô Kỷ, nên tạm gọi vậy), dẫn dắt và giới thiệu tôi vào làm công cho một nhà in trên đường Bolsa, gần Bưu Điện Bolsa...Công việc là làm lặc vặc đủ mọi chuyện, nghĩa là đụng đâu làm đó, sai đâu làm đó...Tôi quên tên nhà in nhưng nhớ chủ nhà in tên là Phú.

Đây là nhà in in tạp chí Hợp Lưu...Những lúc rảnh rổi (chút xíu), tôi có đọc "ké" Hợp Lưu mới được in ra. Phải nói là tôi rất thích. Đó là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với văn học hải ngoại. Qua Hợp Lưu, tôi biết người chủ trương Hợp Lưu là Khánh Trường.

Thường, Khánh Trường ra nhận Hợp Lưu khi vừa in xong, rồi chở trên một chiếc xe truck. Biết vậy, nên tôi tới gặp Khánh Trường và nhờ anh cho biết địa chỉ của nhà văn Trần Hoài Thư, người thầy dạy cũ của tôi. Khánh Trường về nhà và ghi địa chỉ của thầy Trần Hoài Thư đem ra cho tôi. Nhờ vậy tôi đã liên lạc lại được với người thầy mà tôi quý mến.

Đọc "ké" mấy tập Hợp Lưu, rất hay, văn hay, thơ hay, biên khảo hay, nhưng (lúc đó) tôi vẫn thấy có một điều gì gợn gợn trong tôi, có một vài ý kiến bất đồng. Nghĩa là, tôi mới ở VN sang, sau 20 năm sống trên đất nước VN cộng sản. Dĩ nhiên tôi không quên được những ngày tù khổ sai, làm việc cưỡng bách trong các trại cải tạo. Nay mới được nhìn lại lá cờ vàng ba sọc đỏ đến ứa nước mắt...Thế mà hợp lưu (với cờ đỏ sao vàng) sao được đây hở trời! Cho nên tôi cảm thấy rờn rợn, gai góc đầy mình là vậy...

*

Cái tên Khánh Trường, theo Khánh Trường nói sau này, lúc anh sinh ra,  cha mẹ anh đang tản cư ở xã Trường Xuân, làng Khánh Thọ, huyện Tam Kỳ, Quảng Nam. Anh sinh ra ở địa phương này,  nên cha mẹ anh đặt tên anh là Khánh Trường (Khánh Thọ, Trường Xuân)...Cùng huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam với tôi, nên sau này quen nhau, tôi thường nhân đó mà nhận Khánh Trường là đồng hương, dù Khánh Trường ít khi nhắc tới quê của mình, nói rằng lớn lên anh đi cùng nơi chi xứ.

Theo tôi, Khánh Trường thành danh ở hội họa nhiều hơn ở văn học (văn, thơ). Tranh anh có màu sắc, có bố cục, nhất là những tranh  về thiền...Xem tranh của Khánh Trường tuy không hiểu nhiều nhưng mình tự thấy như đang ở một thế giới nhẹ tênh...

Và nữa, Khánh Trường làm chủ biên tạp chí Hợp Lưu rất xuất sắc, anh biết chọn bài hay, trình bày sách đẹp và lôi kéo được một số nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo cộng tác có giá trị, có cả những nhà văn, nhà phê bình nỗi  tiếng ở trong nước cộng tác. Đó cũng là một thành công.

Nhiều khi cái thành công đó, khiến Khánh Trường có vẻ cao ngạo, ngông nghênh...Dù tôi biết trước bảy lăm, anh chỉ là một người lính nhảy dù (không là sĩ quan) và tôi tự lý luận, là lính trơn nên Khánh Trường chắc cũng không có bằng cấp gì về văn hóa, (chứ có tú tài 1 đã đi sĩ quan rồi). Nên khi có chút tiếng tăm về hội họa, văn học Khánh Trường  có sự cao ngạo, ngông nghênh, đó có phải để khỏa lấp chuyện đi "lính trơn" của mình không?

Một vài kỷ niệm

Không nhớ vào năm nào, tháng nào, hình như khoảng 2012..., nhà thơ Thái Tú Hạp & Ái Cầm tổ chức Ra Mắt Sách cho các tác giả: nhà thơ Hoàng Lộc, nhà văn Lâm Chương,  nhà thơ Phan Xuân Sinh, nhà thơ Đức Phổ tại Little Sài Gòn. Các tác giả ở các tiểu bang thật xa về đây Ra Mắt Sách...Buổi Ra Mắt Sách rất vui, tạm coi như thành công.

Tôi thấy đây là dịp rất hiếm để các anh em văn nghệ gặp nhau. Ở chỗ Ra Mắt Sách thì đông người, nên không nói chuyện được nhiều... Tôi bèn có nhã ý mời các bạn văn đến nhà tôi nhậu chơi một bữa. Tôi ngõ ý với nhà thơ Thành Tôn, anh đồng ý, nên buổi chiều hôm sau đó, tại nhà tôi có mặt nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, Phùng Nguyễn, Thành Tôn, Khánh Trường, Hà Nguyên Du, Lâm Chương, Phan Xuân Sinh, Đức Phổ...(hình như có thêm Đặng Hiền, Nguyễn Nam An, và cô Thúy Vân Nguyễn Thị Mắt Nâu)... thiếu Hoàng Lộc vì Hoàng Lộc bận với người yêu thơ anh..

Đây là lần đầu tiên ngồi nhậu với Khánh Trường. Khánh Trường lúc này còn khỏe, da dẽ hồng hào...uống rượu rất bạo.

Lúc này Hà Nguyên Du in một tập thơ, có nhờ Khánh Trường vẽ bìa. Khánh Trường có một tranh mẫu bìa đã gởi cho cô Bích Xuân tại Pháp, làm bìa tập thơ của cô. Nhân chuyện gấp gáp nên Khánh Trường gởi tranh bìa này cho Hà Nguyên Du làm bìa luôn tập thơ của HND. Không biết do đâu mà Hà Nguyên Du biết tranh bìa tập thơ của mình trùng với bìa với một cuốn sách của Bích Xuân, Hà Nguyên Du đem chuyện này ra phàn nàn (lèng èng) với Khánh Trường và anh em trong chiếu rượu. Khánh Trường đang hơi men nên đã tức khí ném cái ly rượu đang uống vào mặt Hà Nguyên Du. May mà chiếc ly đi chệch đích.

Chuyện sau đó trở thành không vui, Phùng Nguyễn phải chở anh Nguyễn Xuân Hoàng ra phi trường để về San Jose, và mọi anh em có mặt đều buồn, từ từ lục tục ra về.

Nghe nói sau vụ đó, Khánh Trường về bị trock...Thời gian sau anh nằm trong một nursinghome, tôi có đến thăm...

*

Sau này có nhiều dịp tôi gặp Khánh Trường. Tôi đến nhà Khánh Trường nhờ anh cho mượn tranh để triển lãm trong Ngày Họp Mặt Liên Trường Quảng Nam Đà Nẵng và Ngày Họp Mặt cựu học sinh trung học Trần Cao Vân Tam kỳ. Mỗi lần đến nhà anh mượn tranh,  Khánh Trường và chị Oanh đều nhiệt tình cho mượn (...kể các các họa sĩ Hồ Thành Đức, Nguyễn Đình Thuần cũng vậy).

Đó cũng là một kỷ niệm rất đẹp.

Bây giờ thì các anh Nguyễn Xuân Hoàng, Phùng Nguyễn, Phan Xuân Sinh đã mất, nay đến lượt Khánh Trường...Thật buồn thay!

Nhớ lắm Khánh Trường ơi!
Chúc bạn  ra đi thanh thản!
 

-- Trần Yên Hòa

Anaheim, 28-12-2024

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”
Bạn tắt hết điện thoại, truyền hình, bạn gập lại các quyển sách đang đọc. Bạn ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, khóa kín cửa, hay bạn ngồi trên một tảng đá trong rừng, hay bạn ngồi giữa chợ, điều ấy không quan trọng. Bạn không cần phải thực hành bất kì một lễ nghi tôn giáo, yoga hay thiền nào cả.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.