Hôm nay,  

Khánh Trường, đôi điều...

02/01/202509:20:00(Xem: 2790)
Tưởng niệm Khánh Trường

KTruong. Đinh Cường vẽ
Khánh Trường trong mắt Đinh Cường.

Chúng tôi quen nhau bắt đầu bằng một…thùng sách.

Tháng 9/1993, tôi và gia đình đến định cư ở một thành phố thuộc một tiểu bang miền Bắc nước Mỹ. Thành phố, tuy không nhỏ, nhưng chẳng nổi tiếng, tuy không thưa thớt người, nhưng thiếu bóng đồng hương, tuy rộn ràng nhưng là cái rộn ràng xa lạ: toàn là người…ngoại quốc. Chân ướt chân ráo mới đến xứ lạ, chẳng dám nghĩ gì xa xôi ngoài chuyện ăn chuyện ở chuyện đi làm chuyện nuôi con, thì đâu khoảng vài tháng sau đó, tôi nhận được một thùng sách khá nặng, với tên người gửi lạ hoắc: Khánh Trường. Trên lá thư ngắn kèm theo với cái “logo” Hợp Lưu ở góc trên, là vài dòng viết tay:  “Qua HHU, tôi được biết đến anh. Nghe tin anh và gia đình vừa đến đến định cư, tôi chúc mừng anh. Mong anh sớm ổn định cuộc sống và viết lách trở lại với anh em. Sơ ngộ, tôi gửi biếu anh một ít văn chương Bolsa. Mong được liên lạc thường xuyên với anh.”

Thùng sách chứa đâu khoảng trên 20 cuốn, gần một nửa trong số đó là tạp chí Hợp Lưu cũ, mấy tác phẩm của Khánh Trường, “Đoản Thi Khánh Trường”, “Có Yêu Em Không?”, “Chỗ Tiếp Giáp Với Cánh Đồng”, thêm tập “Ngựa Nản Chân Bon” của Nguyễn Mộng Giác, tập sách “Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương”  cùng với các tạp chí Văn Học, Văn và Thế Kỷ 21, mỗi thứ một, hai số. Cầm từng cuốn sách, cuốn báo như được gặp lại cố nhân. Giở ra đọc vội vài dòng cuốn này rồi chụp qua cuốn khác, cũng đọc vội vài dòng, cứ như thế cho đến hết, lòng bồi hồi sung sướng như thể vừa được tái sinh. Sau gần 20 năm ở trong nước, sống như mù như câm, thấy chữ là tránh, là sợ, thùng sách mở ra cho tôi một thế giới hoàn toàn mới mẻ. Tôi ngấu nghiến đọc đêm đọc ngày, đọc hết cả thùng sách lúc nào không hay. Càng đọc, càng thích thú và, thú thật, lại càng ngạc nhiên và bỡ ngỡ vì không ngờ không khí ở hải ngoại lại lu bu “nhiều chuyện” và phức tạp như thế, nhất là chủ trương “hợp lưu”. Nhưng gì thì gì, lần đầu tiên, tôi cảm nhận được cái không khí cởi mở của một miền Nam thuở nào. Thùng sách Khánh Trường như một chiếc cầu nối tôi với thế giới sách vở văn chương hải ngoại. Nhờ những thông tin có được, tôi bắt đầu liên lạc với các tạp chí văn chương và một số các bạn văn khác. Sẵn hai bài viết, một truyện ngắn và một tiểu luận, giấm giúi mang ra được từ trong nước, tôi gửi ngay cho Nguyễn Mộng Giác, một nhà văn đàn anh chưa hề quen, đang coi sóc tờ “Văn Học” và  được anh cho đi ngay trong hai số mới nhất sau đó.

Mãi đến gần một năm sau, sau nhiều lần ngần ngại và đắn đo, tôi mới quyết định gửi bài cho Khánh Trường. Nhận được bài (một truyện ngắn có tựa đề là “Kỷ Niệm”, viết tay và gửi qua bưu điện), Khánh Trường gọi điện thoại cười bảo, tưởng ông sợ làm phiền lòng chiến sĩ nên “xù luôn Hợp Lưu” chứ. Anh cho đi ngay trên Hợp Lưu số 19, tháng 10&11/1994. Biết tôi nóng lòng chờ, báo vừa ra khỏi nhà in là Khánh Trường ưu ái gửi gấp qua đêm (overnight shipping) cho tôi. Tôi khoái nhất cái mục lục với danh sách hàng chục tên tác giả và các bài viết của họ, nên đọc đi đọc lại mãi. Không thể nào ngờ, có ngày mà tên “họ” và tên tôi có cơ duyên được nằm chung trong một số báo. Nào là những tác giả nổi tiếng một thời của văn học miền Nam (mà tôi từng yêu thích) như Bùi Giáng, Thế Uyên; nào là Luân Hoán, Hoàng Lộc, Đinh Cường, những tác giả đã từng xuất hiện trên những tạp chí văn học Sài Gòn trước 1975 như tôi; nào là Nguyễn Văn Phụng, Tiêu Dao Bảo Cự, Trần Vàng Sao, những người bạn cùng lứa, sống cùng thời nhưng khác chiến tuyến; nào là Văn Cao, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Quang Thiều - những cây bút ở bên kia chiến tuyến; rồi nào là Trân Sa, Trần Vũ, Trần Mộng Tú, Chân Phương, Phan Nhiên Hạo, Thận Nhiên, vân vân, những khuôn mặt mới toanh của văn chương hải ngoại.

C:\Users\DadPCHome\Pictures\75726964559__54E527FF-A044-4208-8A88-8E6D68D63C24.jpg
Mục lục các bài viết trên Hợp Lưu số 19, 10&11/1994
(Hình: Thành Tôn)
 
Bài kế tiếp tôi gửi cho Hợp Lưu là bút ký “Cuộc Rượu Bên Sông”, ghi lại một chuyện “không thể nào ngờ” khác là được ngồi uống rượu cùng Phùng Quán – mà vài bài thơ của ông đã ám ảnh tôi suốt cả thời tuổi trẻ - bên bờ sông Hương, Huế. Bút ký này được Khánh Trường cho đi ở Hợp Lưu số 24 với lời giới thiệu ở đầu bài như sau:

LTS: Bài viết này lẽ ra đã đến với độc giả ở số HL 22 (tháng 4&5, 1995), để tưởng niệm thi sĩ Phùng Quáng đã mất. Nhưng do bưu điện chậm trễ, chúng tôi chỉ nhận được bản thảo thời gian gần đây. vậy xin độc giả hãy xem “Cuộc Rượu Bên Sông” như một nén nhang thắp muộn, cho một tài hoa vừa khuất - Hợp Lưu”.

C:\Users\DadPCHome\Pictures\image0.jpeg
Hình: Thành Tôn.

Hè năm 1995, tôi đi quận Cam. Lần đầu tiên. Huỳnh Hữu Uỷ dẫn tôi đến thăm Khánh Trường. Có bạn, lại là bạn mới từ xa đến, Khánh Trường hào hứng khui rượu và khui lời khui chữ. Ba chúng tôi vừa uống vừa đấu láo đủ thứ chuyện trên đời, kể cả những khó khăn và ngộ nhận về tờ Hợp Lưu trong thời gian đầu tiên. Khuya, say rượu, say bạn, say văn, tôi nằm gục trên ghế salon, mê man không biết trời chẳng biết đất. Sáng hôm sau, Khánh Trường kéo đầu dậy, chở tôi đi lang thang thăm thú chỗ này chỗ nọ người này người nọ quanh quanh khu Bolsa. Khánh Trường trên bàn nhậu, trong quán cà phê, khi trò chuyện, khi đấu láo, tranh cãi cũng là Khánh Trường của truyện ngắn, của tạp bút Kim Thi. Người sao văn vậy: giang hồ, hào sảng, nghĩ gì nói nấy, không văn hoa bóng bẩy, chẳng cần rào trước đón sau. Vui và thích và (cũng dễ)…gây gỗ. Đề tài thích thú, cũng là niềm hãnh diện của Khánh Trường, trước sau đều xoay quanh hai chữ “hợp lưu”. Chuyện hợp lưu (văn chương) thì vẫn cứ (và vẫn còn phải) tranh cãi, tranh cãi dài dài, nhưng tờ Hợp Lưu thì dứt khoát là dấu ấn bất khả bàn cãi của Khánh Trường trong văn chương hải ngoại. Nhậu thì nhậu, ăn thì ăn, những hễ gặp đề tài này, là Khánh Trường không tha: vừa biện (bạch) vừa bảo (vệ) vừa khoe. Nhớ Khánh Trường không thể không nhớ cung cách  làm văn chương “kiểu Khánh Trường”:

Ý định xuất bản một tờ báo có chủ trương hợp lưu mọi dòng văn học về một mối manh nha trong đầu. Tôi gặp vài anh chị em khác: Nhật Tiến, Đỗ Khiêm, Vũ Huy Quang, Lê Bi, Nguyễn Hương, Thân Trọng Mẫn, Phạm Việt Cường, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Mạnh Trinh…và liên lạc bằng điện thoại, thư từ với nhiều anh chị em khác nữa, cư ngụ ngoài Cali và nước Mỹ. Điều tôi không ngờ: hầu hết các văn nghệ sĩ tôi tiếp xúc đều tán đồng chủ trương của tôi. (….) Như thế, với nhiều công sức tài lực của nhiều anh chị em, Hợp Lưu ra mắt số đầu tiên đầu tháng 10 năm 1990. (…)  …giai đoạn đầu, gần như tuần nào, tháng nào, trên hầu hết các tờ báo, Hợp Lưu và nhóm chủ trương, nhất là tôi…cũng bị đem ra làm bia tập bắn. Nhẹ, lời lẽ ôn hòa xây dựng; nặng, bỉ thử thô lỗ, có khi mang cả đời tư của chúng tôi và những hệ lụy cật ruột ra bêu riếu, ném bùn. Nhiều tháng liền, cách vài ba đêm, giữa khuya, một cú điện thoại từ đâu đó gọi tới, đòi “đốt nhà, ném lựu đạn, bắn bỏ” cái kẻ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”, cái bọn “nằm vùng, đâm sau lưng chiến sĩ.” (…) Vì thế, tôi quyết định…chịu trận. Có khi cao hứng, tôi chọc lại bằng cái phong cách rất…nhảy dù: hẹn các đấng hùng anh kia đến một công viên nào đó chọi tay đôi, hoặc đấu súng đấu dao tùy chọn lựa, bảo đảm không báo trước với cảnh sát. (…) Gọi mãi, chửi mãi, hăm dọa mãi, vẫn thấy Hợp Lưu xuất hiện đều đặn, đúng kỳ trên các sạp báo ở các nhà sách. Những cú điện thoại thưa dần, rồi dứt hẳn.” (Trích: Đỗ Lê Anh Đào, Nói chuyện với nhà văn/họa sĩ Khánh Trường, “Truyện ngắn Khánh Trường tập II”, nxb Nhân Ảnh 2016, trang 365-368).

Dù không đồng ý hoàn toàn với Khánh Trường ở điểm này điểm nọ, nhưng tôi cộng tác với Hợp Lưu cho đến ngày Khánh Trường bị bệnh, phải rút lui và tiếp tục góp bài cho Hợp Lưu do Trần Vũ, Phùng Nguyễn và Đặng Hiền đảm trách. Từ đó, suốt một thời gian dài kể từ khi giã từ sân chơi, một phần vì bệnh tật và một phần khác có lẽ vì muốn xa lánh chốn thị phi, nên Khánh Trường gần như vắng mặt hẳn, ở chỗ công cộng, trên báo chí cũng như ở chốn riêng tư. Tôi thì, năm nào cũng ghé qua quận Cam, tham dự và tham gia hết sự kiện này đến họp mặt khác, nhưng dường như không mấy khi nghe (ai đó) nhắc đến tên Khánh Trường. Mãi đến tháng 6/2017, tôi hỏi Thành Tôn và rồi, cùng Thành Tôn ghé thăm anh ở khu “mobile home”, 9800 đường Bolsa, Westminster, Little Saigon. Sau nhiều năm xa cách, tôi gặp lại một Khánh Trường khác hẳn: ngồi xe lăn, thân hình thon gọn, giọng nói hiền hòa, nhẹ nhàng. Anh giới thiệu với tôi một số tranh và sách mà anh lặng lẽ sáng tác thời gian sau này. Nhưng khi đề cập đến chuyện này chuyện nọ về “chốn văn chương” ở ngoài kia, Khánh Trường xua tay, tôi ngộ rồi, giờ thì bỏ hết mọi sự ngoài tai, chỉ tập trung chăm lo cho bản thân mình. 

Đó là lần cuối cùng tôi gặp Khánh Trường. 

Khánh Trường ra đi, Hợp Lưu, tuy cũng đã ra đi từ lâu theo lẽ đời, nhưng những gì nó để lại thì vẫn cứ còn đó. Đó là một “giấc mộng văn chương”, không chỉ của riêng anh, mà là của những ai yêu mến trò chơi chữ nghĩa, nhất là trong hoàn cảnh của một đất nước mà, sau năm mươi năm, vẫn còn vô số điều là giấc mộng. Dù sao, sự kiện những kẻ đã từng tưởng như không đội trời chung, có dịp xuất hiện với nhau trên cùng một tờ báo gọi là “Hợp Lưu” cũng đáng được xem là một thành tựu. Những gì Khánh Trương khởi đầu, đã được tiếp nối với những bàn tay thiện chí khác, sau này. Như ta có thể nhìn thấy trên một vài trang mạng văn học nghệ thuật được xem là đứng đắn hiện nay…

 

– Trần Doãn Nho

(31/12/2024)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”
Bạn tắt hết điện thoại, truyền hình, bạn gập lại các quyển sách đang đọc. Bạn ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, khóa kín cửa, hay bạn ngồi trên một tảng đá trong rừng, hay bạn ngồi giữa chợ, điều ấy không quan trọng. Bạn không cần phải thực hành bất kì một lễ nghi tôn giáo, yoga hay thiền nào cả.
Một trong những thành tựu quan trọng đáng tự hào của cộng đồng người Việt là sự thành công của những cây bút người Mỹ gốc Việt, kể câu chuyện Việt góp phần vào nền văn học lưu vong Việt Nam cũng như góp mặt vào dòng văn học chính Hoa Kỳ. Bài giới thiệu sách này thuộc loạt bài giới thiệu các tác giả, tác phẩm thuộc dòng văn học thế hệ thứ nhất-thứ hai, trong thời điểm 50 Năm Nhìn Lại, từ biến cố tháng Tư, 1975.
Bạn có thích đọc thơ không? Người ta nói, mỗi người Việt là mỗi nhà thơ. Nhà thơ sao lại không đọc thơ? À, như vậy, bạn có đọc thơ. Dĩ nhiên bạn thích đọc thơ hay. Nhưng làm thế nào để biết bài thơ hay? Có bài thơ được nhiều người khen hay quá trời, sao bạn lại nghĩ là dở. Hoặc bạn hí hửng khoe bài thơ hay vừa đọc được, người bạn đọc xong, lắc đầu. Sao vậy? Thơ hay không bảo đảm người đọc đồng ý với nhau. Hãy hỏi bạn Trí Thông Minh Nhân Tạo (A.I.), trông cậy anh ta biết nhiều, hiểu rộng, có thể cho đôi lời vắn tắt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.