Hôm nay,  

Cuộc Ngưng Chiến Không Có Thật

30/01/202511:09:00(Xem: 2817)
 
Minh họa Đinh Trường Chinh
Minh Họa Đinh Trường Trinh 

Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…”
Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…

Rồi các nhật báo Việt Nam ở những sạp báo dưới phố đã nhanh chóng phát hành,loan tin Việt Nam sắp có đình chiến, sắp trung lập đến nơi rồi. Mỹ đã ký Hiệp Định ngưng bắn với Bắc Việt.

Chị lúc đó, khi thì chạy lăng xăng theo mấy ký giả, lúc thì ngồi thừ người ở bàn giấy của mình nghiêng tai nghe hai chữ “Đình Chiến” nhìn mọi người chạy qua chạy lại trước mặt mình.

Ông Xếp bảo: Cô chạy sang bên Macv xem có gì mới thì gọi báo về, sang bên Chiến Tranh Chính Trị, Đài Phát Thanh Quân Đội xem họ có thêm Bản Tin mới nào nữa không? Ông nói xong thì lại quên luôn vì ông đang chúi đầu vào đọc những dòng telex mới.

Chị ngồi thừ trên bàn viết của mình, như không nghe thấy ông nói gì, mặc dù bàn của ông và của Chị đối diện nhau, trong cái buồng khoảng hơn 4 mét vuông.

Trong tai Chị, lùng bùng hai chữ “Hòa Bình” trong đầu Chị trôi lềnh bềnh hai chữ “Ngưng Bắn” Đầu chị như một cái ao nhỏ và mấy cái chữ này như mấy cánh hoa lục bình…bập bềnh…bập bềnh…trôi.

“Ngưng bắn”, thế có phải là Trung Lập, là Hòa Bình không? Hòa Bình là hết bắn nhau, là hết bom đạn, hết bị thương, hết tử trận…và những người lính được giải ngũ về với gia đình.

Hết bắn nhau thì những người lính sẽ được buông súng trở về với nhiệm sở cũ của mình hoặc kiếm công việc an bình hơn.

Người dân miền Nam sẽ không lo pháo kích, không lo bị đặt chất nổ ở những nơi công cộng, làng xã những vùng “xôi đậu” không lo ban ngày quốc gia, ban đêm cộng sản về. Hạnh phúc hơn nữa anh em, họ hàng chia ly từ 1954 có thể tìm về đoàn tụ với nhau… Ôi thật là bao điều kỳ diệu sẽ xẩy ra cho người dân cả hai miền Nam Bắc.


Bất giác Chị thấy sao lòng mình lại quặn thắt, nước mắt Chị bỗng ứa ra. Chị lấy khăn lau vội và Chị rời văn phòng, không báo cho ai biết, chị đi vào thang máy xuống phố.

Chị hòa vào đám đông dưới phố. Người ta đang tụ tập tùng nhóm nhỏ trước những sạp báo. Họ đang chúi đầu vào cùng một trang báo, tìm hai chữ “Đình Chiến” hai chữ “Ngưng Bắn”. Chị tránh đám đông đi bộ về hướng bến Bạch Đằng, con đường hơi dài nhưng với Chị bây giờ đường ngắn hay dài Chị cũng thấy như nhau, chị cần bỏ đám đông, bước đi, đi đâu cũng được, vì đầu óc Chị chỉ biết có một điều:

Dù “Ngưng Bắn”, dù “Hòa Bình” Anh cũng không bao giờ về nữa.
Em đã thấy xôn xao trong thành phố
Người ta đang nói hai chữ “Hòa Bình”
Em đã đọc trên từng trang nhật báo
Người ta viết rằng Việt Nam sẽ tàn lụi chiến tranh
Em đã nghe những bài hát hiền lành
Trên môi người ca sĩ
Những bài ca xanh mộng hòa bình
 
Ôi tất cả đều ôm lòng non dại
Từ cụ tám mươi tới đứa trẻ lên ba
Ôi giấc mơ đã xóa mất tuổi già
Để tóc bạc thấy mùa xuân trở lại
Ôi ngày mai nếu thanh bình em sẽ thấy
Những người lính mất tay mất chân
Cũng rủ nhau tìm ra Hà Nội
Những người mù
Những đứa bé mồ côi
Những khăn tang cũng tìm được tiếng cười
Sẽ chấm dứt bom rơi đạn nổ
 
Nhưng hòa Bình rồi
lòng em vẫn không vui
 
vì Anh đã bỏ đi trước khi ngưng tiếng súng.
vì Anh đã chết trước khi được nghe hai chữ “Hòa Bình” (tmt-1973)
 
Ngày 27 tháng 1 năm 1973, tờ New York Time đã tường trình một tin mới nhất về một thỏa thuận ngưng chiến giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam tại Paris. Nhưng Cộng Sản không bao giờ nghiêm chỉnh trong những lời hứa, dù lời hứa được cam kết bằng bút mực. Súng đạn vẫn tiếp tục nổ tại miền Nam và người dân vô tội vẫn chết ngay trên ruộng đất của mình, làng mạc vẫn cháy, trẻ em vẫn mồ côi cha, người vợ trẻ vẫn phải chôn chồng. Cộng Sản là những người không bao giờ nói thật, và lừa dối ngay cả trên văn bản, chữ viết, cho nên Bản thỏa thuận dù có chữ ký hai bên không hề được thực thi đứng đắn.
 
Bài Thơ cho một “Hòa Bình” không có đích danh là những giọt lệ không bao giờ khô trong mắt chị.
 
Trần Mộng Tú 
Tháng 1-2025 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.