Hôm nay,  

Vườn Hồng, Một Buổi Trưa

31/01/202500:00:00(Xem: 3437)

vuon hong
Minh họa: Đinh Trường Chinh
 
Phải chi khách đến thăm vườn hồng hơn trăm giống quý đủ màu sắc của ông Chu hằng ngày là khách mua hoa thì chắc thu nhập của gia đình ông đỡ hơn. Ông nghèo, nhưng cái máu nghệ sĩ của ông lại mạnh mẽ hơn chuyện tiền bạc, lại gặp bà vợ hết mực chiều chồng, nên cứ nghe đâu có giống hồng lạ là bằng mọi cách phải có cho bằng được. Năm ba ký gạo đắp đổi hằng ngày đã khó, mà có những giống người ta đổi cả tấn lúa ông cũng lắc đầu.
 
Thật ra thì ông cũng có chút thu nhập từ những bạn đồng điệu, thỉnh thoảng họ cũng mua vài ba, năm bảy cành giống ông chiết sẵn vừa ra đủ rễ, hoặc lâu lắm cũng có vài người khách ngoài tỉnh họ mua với số nhiều, lại còn đặt cọc trước cho ông chiết sẵn vài chục giống mà họ chưa có, nhưng những con số đó không thấm tháp gì với con số ông bà đã bỏ ra, tuy vậy, cứ có khách đến thăm, dạo tới dạo lui, hoặc ngồi nhâm nhi nước trà nơi cái bàn đá ngoài vườn là ông thấy vui, dù đa phần khách đến để chiêm ngưỡng, nhận xét phê bình này nọ nhiều hơn khách mua.
 
Một người khách nữ bước vô nhà, định gật đầu chào nhưng ông kịp nhận ra, rất nhanh, ông dẫn chị ra vườn hoa, không kịp mừng, họ vừa loanh quanh vườn, vửa vội vã khơi thông dòng nước bị bị nghẽn mạch lâu ngày, sau câu hỏi nhỏ, của ông Chu, vể hồi nào.
 
-Biết anh vẫn khỏe là em vui rồi, em không muốn hỏi anh sống thế nào, vì ít nhiều em cũng đã biết về anh. Ngày đó anh không lên tàu kịp, và em mất anh, bao năm nay, mình nào nói với nhau được gì.
 
Ngừng một chút, chị thở dài, nói nhanh như sợ không còn được nói:
-Nghe anh có gia đình không biết làm sao viết thư gửi quà cho anh, em về đây cũng chính là muốn gặp anh một lần, Em ở khách sạn, anh có muốn gặp em không?
 
Ông cúi đầu, không nhìn thẳng chị như có gì đó không ổn:
-Thường thì anh tự nhốt mình quen rồi, Từ ở tù về, anh tự cách biệt với xã hội bên ngoài, anh không bạn bè, quán xá gì. Đi đâu ra khỏi cửa thì lúc nào bà xã cũng ngồi sau cái ba-ga xe đạp. Anh mà đi một mình được là bất thường lắm.
 
Chị thở dài nhè nhẹ:
-Sao anh hành hạ mình chi vậy, ai cũng phải sống mà.
 
Ông cũng thở dài, cái thở dài như được có cái bóng mát đặt xuống một gánh nặng mà như lâu lắm ông chưa được có ai để ông gửi gắm:
-Em không biết chúng nó khủng bố gia đình anh và anh thế nào đâu.
-Điều đó thì từ khi còn ở đây em đã biết rồi, em nghĩ có khi lâu rồi chúng có cởi mở hơn…
-Cũng nới phần nào, nhưng cũng tùy đối tượng, anh không nằm trong số được thở. Nó chưa giết anh đã là may lắm.
 
Họ tiếp tục dợm bước qua từng chậu hồng, cứ như những lần ông chuyện vãn, giải thích với khách. Họ cứ lặng lẽ những câu chuyện riêng tư, không quên ngó chừng từ trong nhà người vợ có bất chợt bước ra không, dù ông biết chắc vợ ông đang bận chăm chút đứa con mới sinh hơn tháng.
-Chị có có nghe tên em không?
-Em muốn có hay không?
-Em muốn cả thế giới biết là…chúng ta…
Không khí giữa họ trở nên vui vẻ, ông nhìn chị cưới:
-Để em sống một mình?
-?
-Thì anh chết chứ sao.
-Thử đi, không chết đâu. Mình có làm gì nên tội đâu. Vậy chứ anh sẽ nói em là gì?
-Khách mua kiểng.
-Em nói!
-Anh thách em.
-Em có mua cho anh vài bộ bô quần áo mặc Tết. Em đem về một thùng quà để dưới khách sạn…
Không để chị dứt lời, ông vội vã từ chối:
-Không dám nhận đâu.
-Tại sao?
-Anh biết nói sao?
-Thì… nói bạn nào đó cho.
-Bạn nào trong cuộc đời anh mà bả không biết.
-Ưm…anh cất ít tiền tiêu… Mua giùm em những gì anh cần
-Không, anh không thể.
-Chúng ta không có nhiều thời gian mà, em năn nỉ anh. Đừng làm em buồn.
-Thôi, anh hiểu em là đủ rồi.
-Làm ơn. Đủ là sao?
Ông giải thích:
-Là… không có em, lâu nay anh cũng lây lất sống được mà. Anh với em vậy cũng đủ để nhớ nhau, đủ đẹp rồi. Như những bông hồng kia, đã có lúc hàm tiếu, rồi mãn khai, rồi cũng đã phải úa tàn. Không phải bao năm qua là đã tàn lụi rồi sao?
Chị lại thờ dài, cố gắng lắm để không bật ra tiếng khóc, nhưng không kịp cố gắng để ngăn hai dòng nước mắt ứa vội:
-Em hiểu rồi. Anh có được người vợ tốt, thương yêu lo lắng cho anh là em mừng rồi, nhất là tù tội về chỉ còn là phó thường dân, cá nằm trên thớt. Hay… em có thể mời anh chị dùng với em một bữa trưa nhé?
-Thôi em, bà xã bận bịu với cháu nhỏ lắm, mấy bữa nay con bé bị bệnh, lại nãy giờ bả cũng đang lo cơm trưa, anh không mời em ở lại dùng cơm đã là một thiều sót rồi.
-Gì cũng không, em tức anh quá. Chị thật đảm đang, cho em cám ơn chị, anh tin em thật lòng không?
Chị ngừng nói vì bất chợt thấy ông nhìn thẳng mặt chị, như xác định câu nói của chị có vẻ gì mỉa mai không, ông yên tâm khi thấy chị nói thật, ông cười:
-Ở đâu ra như bài học thuộc lòng vậy?
-Thật mà, nghe anh nói em hiểu là chị yêu anh lắm. Anh cho em tính thế này, anh nhờ ba gác chở xuống khách sạn ba bốn chục chậu hồng đủ thứ cho em, em gửi tiền trước cho anh ở đây. Em năn nỉ anh, gần tết rồi, em biết ai cũng khó khăn, và em cũng khó khăn lắm mới về gặp được anh đây, chưa chắc gì còn lần sau, coi như một chút kỷ niệm để nhớ ngày xưa.
Bị dồn vào thế chẳng đặng đừng, thấy chị hợp lý hóa chuyện tiền bạc ông có phần xiêu lòng, ông im lặng như đồng ý, tuy nhiên vẫn muốn làm khó chị:
-Nhưng mà anh không muốn những giống quý của anh lưu lạc vô tay nhũng người không biết chơi.
Thấy ông không còn thẳng thừng từ chối, chị vui ra mặt, trả lời thật nhanh:
-Em có chơi đâu, em không cần giống má gì hết, Anh cứ cho em ba cái thông thường là được.
Chị thòng thêm:
-Anh yên tâm, em làm ra nhiều tiền lắm.
Ông thắc mắc:
-Rồi em làm gì với cái đống hổ lốn ấy?
Chị đùa:
-Đập cho bõ tức.
 
Đặng Kim Côn 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.