Hôm nay,  

Có Những Tháng Ngày Như Thế ...

21/03/202500:00:00(Xem: 3817)

Minh-họa-Đinh-Trường-Chinh
Minh họa của họa sĩ Đinh Trường Chinh

Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo.

Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh.

Hồi đó, mỗi người trong sổ hộ khẩu đều có một Sổ Sức Khỏe, bên ngoài bìa ghi vài thông tin tổng quát, gồm họ tên, tuổi bao nhiêu, và địa chỉ thường trú. Thằng cháu mới 9 tuổi, anh lấy cây viết cùng màu mực với số 9 rồi viết thêm số 2 đàng trước rất phù hợp với độ tuổi của anh (anh thực sự 28 tuổi), nhưng cái tên của thằng cháu khá “đặc biệt”  làm anh hơi ngại ngần. Ba của nó tên Hoàng, là Đại Úy Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Lúc bà chị họ của tôi sanh thằng nhỏ thì ảnh đang “lắc lư con tàu đi” tác chiến ở vùng sông nước Hậu Giang và nhắn vợ đặt tên con là Lê Hoàng Biển Cả, coi như kỷ niệm tình yêu sự nghiệp đời Lính của anh.

Anh Hai mượn Sổ Sức Khỏe của cháu, vì anh không còn chọn lựa nào khác. Ba người anh còn lại của tôi, một anh đã vượt biên đang ở Mỹ, hai anh khác học xong Đại Học ra trường đi làm ngoài tỉnh nên hộ khẩu ở chỗ làm. Anh Hoàng, chồng bà chị họ mới “học tập cải tạo” về nhà, còn trong thời hạn bị địa phương quản chế nên có cho vàng anh Hai cũng không dám mượn sổ, không muốn gây thêm liên lụy cho anh rể. Ba tôi, cũng mới nằm bệnh viện cả tháng chữa bệnh bao tử nên cái Sổ Sức Khỏe đầy chữ viết bệnh án của bác sĩ, anh không thể mượn sổ của ba vì dễ bị phát hiện. Chỉ còn đứa cháu 9 tuổi, cái sổ còn trống trơn. Bà chị họ sốt sắng đưa anh cuốn sổ của thằng Biển Cả, bảo anh cứ liều... “mạng cùi” đến bệnh viện, cùng lắm thì anh bị trở vào tù, chớ ai lại bắt thằng bé 9 tuổi?

Thế rồi cũng êm xuôi trót lọt, anh được điều trị cắt cơn sốt rét tại bệnh viện, thời gian dự trù khoảng hai tuần. Tôi đang học lớp10, đường đi đến trường có ngang qua bệnh viện, nên có một buổi chiều sau khi tan học, tôi ghé thăm anh. Gặp tôi, anh vui vẻ tươi tỉnh, biểu tôi gửi xe rồi cùng anh đi dạo ra ngoài vì cả tuần qua anh còn mệt nên chỉ loanh quanh trong bệnh viện.

Hai anh em tản bộ về hướng chợ Xóm Mới, mải mê nói chuyện, đến cổng nhà thờ Hoàng Mai thì tôi nghe tiếng gọi:

- Anh Biển Cả! Anh Biển Cả!

Sau vài giây khựng lại, tôi liền nhớ ra, quay qua anh Hai:

- Anh Hai ơi, có người gọi anh... Biển Cả kìa!

Anh ngưng nói chuyện, cố tìm trong ráng chiều chạng vạng người nào đã gọi anh, thì một cô gái đi nhanh về hướng chúng tôi. Anh nhận ra, cười tươi và giới thiệu:

- Em ơi, đây là cô Hoài, người y tá chăm sóc anh ở bệnh viện. Còn đây là Loan, em gái của tôi học ở trường Nguyễn Trung Trực gần đây nên ghé thăm tôi.

Chị Hoài hỏi thăm tôi vài câu, rồi nói:

- Anh Biển Cả và Loan chờ đây nhe, em chạy vào trong nhà một chút.

Chị chạy vào trong hẻm nhà thờ, lát sau mang ra một túi đồ dúi vào tay tôi và nói với anh:

- Bữa nay nhà em có đám giỗ, em tính sáng mai mang đến bệnh viện chút trái cây để anh dưỡng sức, nhưng bây giờ gặp thì đưa luôn, có thêm miếng xôi vò, chả lụa và mấy cái bánh ngọt, hai anh em cùng ăn cho vui nha.

Tôi chần chừ, chị Hoài nói tiếp:

- Lộc đám giỗ thôi mà, vả lại, chị muốn cám ơn anh Biển Cả dạy kèm English cho chị.

Anh Hai gật đầu nên tôi cầm lấy bịch thức ăn. Trên đường trở về bệnh viện, anh kể, cái tên Biển Cả làm anh ... nổi tiếng trong bệnh viện. Hễ khi gọi tên bệnh nhân lấy thuốc, cứ đến lượt “Lê Hoàng Biển Cả” là các cô y tá bụm miệng cười, nhìn anh vừa tinh nghịch vừa thân ái. Chị Hoài là người chữa trị và theo dõi bệnh tình của anh, cũng có hỏi anh về cái tên lạ mà hay này, anh trả lời qua loa cho xong chuyện, dù có đôi lần lỡ miệng, xuýt bị lộ thân phận. Khi biết anh là giáo viên dạy Tiếng Anh, chị Hoài nhờ anh giúp mỗi ngày các bài vở chị học từ một Trung Tâm Ngoại Ngữ vì gia đình có chị ruột bên Mỹ đang làm giấy tờ bảo lãnh diện ODP.

Tôi trêu anh:
- Nhìn vào cặp mắt chị Hoài khi nói chuyện, em dám chắc là anh đã lọt vào “mắt xanh” của chị ấy rồi đấy, anh tính sao ?
- Anh biết chớ, nhưng anh chẳng còn tâm trí nào cho chuyện tình cảm yêu đương. Hiện giờ anh chỉ còn một con đường, là phải vượt biên bằng mọi giá, thế thôi.

Sau đó, anh được xuất viện, vừa trở về nhà vài ngày thì may mắn có chuyến vượt biên do bạn thân giới thiệu nên anh lên đường ra khơi. Một chiều tôi đi học về, bà chị họ chạy qua:

- Hồi nãy có cô Hoài y tá đến tìm anh... Biển Cả.

Tôi đã từng kể cho cả nhà nghe chuyện gặp chị Hoài lúc đi dạo với anh Hai, nên chị chép miệng:

- Tội cô ấy quá, nhưng nhà mình còn đang nóng ruột chờ tin nên chị đâu dám nói sự thật, đành nói dối “anh Biển Cả” đi Cần Thơ.

Ba tuần sau, cả nhà sung sướng khi nhận điện tín của anh Hai từ đảo Bidong, Malaysia. Trong nỗi vui mừng này, tôi nghĩ đến chị Hoài, đắn đo có nên báo cho chị biết tin anh Hai. Nhưng tôi lại thôi, nào có ích gì, chỉ làm cho chị buồn thêm.
Rồi trời xui đất khiến buổi sáng chúa nhật tôi đi chợ Xóm Mới, đang đi vào tiệm bánh gai đầu chợ thì gặp chị Hoài cũng đang mua bánh gai. Hai chị em mừng rỡ ríu rít, chị kéo tôi vào quán nước để nói chuyện nhiều hơn. Tôi báo tin vui mà không dám... hớn hở:

- Chị ơi, anh Hai của em đã đến đảo Bidong rồi đó.

Chị thoáng thất vọng, buồn buồn, nhưng kịp mỉm cười:

- Ôi, chị mừng cho anh Hai, chung vui cùng gia đình em.

Nói chuyện qua lại một lúc, trước khi chia tay, chị Hoài ngập ngừng:

- Em nè, chị hỏi điều này nếu em không thấy phiền, em cho chị địa chỉ anh Hai bên đảo được không? Thú thiệt với em, gia đình chị chờ đi ODP lâu quá, nên chị và đứa em trai đang tìm mối vượt biên. Chủ tàu nói chuyến đi dự tính đã đầy người, nhưng nếu phút chót có ai rút lui thì sẽ kêu chị. Nếu chị may mắn tới đảo Bidong sẽ tìm anh Hai của em, còn nếu chị tới đảo khác nước khác, chị cũng sẽ viết thư liên lạc với ảnh, được không em?

- Trời ơi, có gì mà phiền chớ. Ngày mai đi học em sẽ ghé qua bệnh viện đưa chị địa chỉ. Mà chị ơi, vậy thì em phải khai thiệt với chị một chuyện ...
- Chuyện gì, em cứ nói.
- Dạ, anh Hai của em hổng phải tên Biển Cả.
- Chị biết mà! Nãy giờ em có thấy chị gọi ảnh là “Biển Cả” không?
- Ủa, ủa, là sao??
- Hôm nọ chị đến nhà tìm ảnh, dù đã có địa chỉ lấy từ sổ sức khỏe, nhưng khi đến đầu hẻm thấy một bác ngồi bán khoai mì đang ... rảnh rang, chị bèn hỏi nhà anh Biển Cả, bác ấy cười lớn, anh gì mà anh, căn nhà cổng màu xanh đó, thằng Biển Cả đang chơi bắn bi với mấy thằng nhóc trong xóm kìa, cô là cô giáo của nó hả!
- Ha...ha...Vậy là chị biết từ ngày đó?
- Thực ra, chị biết từ những ngày ảnh còn ở bệnh viện.
- Ủa, ủa, là sao nữa?
- Chị là người tiếp nhận ảnh lúc đến khám bệnh, thấy cái tên hay, các cô y tá xúm vào hỏi han, ảnh ngượng ngùng bối rối, đúng kiểu chưa quen nói dối. Sau đó chị nhìn kỹ sổ sức khỏe, thì thấy chỗ ghi tuổi, cái số 29 không đều nhau, nét mực cũng hơi khác. Rồi khi chị hỏi ảnh thẻ “chứng minh nhân dân” để làm thủ tục nhập viện, ảnh nói bị mất. Cũng may chị là Y tá trưởng nên bỏ qua thủ tục này.
- Ôi, chị vừa thông minh lại vừa tốt bụng. Sao chị dám giúp ảnh, lỡ ảnh là... tội phạm nguy hiểm thì sao?
- Nghe chị nói nè, trước tiên, chị hành động theo lương tâm “lương y như từ mẫu”, làm sao chị có thể đuổi bệnh nhân ra về khi họ đang run vì cơn sốt? Lý do tiếp theo, dáng vẻ bên ngoài của anh ấy với cặp mắt kiếng, phong thái mô phạm, giọng nói từ tốn điềm đạm, cũng đủ gây tin tưởng cho người đối diện. Hơn nữa, khi tiếp xúc, thì càng thấy anh ấy là người đứng đắn, đạo đức, nhất là sự hiểu biết của ảnh, không chỉ trong môn English mà trong các vấn đề khác. Chị đã cảm mến ảnh từ những ngày đó.
- Chị nói thì em mới dám... khoe luôn, ảnh là cuốn tự điển bách khoa của gia đình và cả xóm em luôn á! Em xin thay mặt anh Hai, cám ơn chị đã bao che và chữa bệnh cho anh ấy.
- Chị cũng cám ơn ảnh, thời gian hai tuần lễ chị đã mở mang thêm một số kiến thức là nhờ ảnh.

Tôi về nhà, viết liền lá thư cho anh Hai, kể lại toàn bộ cuộc nói chuyện với chị Hoài, và dặn ảnh chuẩn bị tinh thần, biết đâu con tàu của chị ấy sẽ cập bến Malaysia. Anh viết lại, biểu tôi yên tâm, vì ảnh đang làm thiện nguyện, dạy English ở đảo, nên quen thân với Ban Điều Hành trại, hễ có chuyến đưa người mới vào đảo là anh được xem danh sách từ chiều hôm trước, rồi đến ngày, anh vẫn hòa vào đám đông kéo nhau ra cầu Jetty đón đoàn người tỵ nạn mới, để tìm người quen, bạn bè, hàng xóm.

Vậy mà bốn tháng sau, khi anh có tên đi định cư Mỹ, buổi tối trước khi rời đảo Bidong để qua trại Sungai Besi, anh viết thư về nhà, có viết riêng cho tôi một đoạn:
- Em ơi, sao chị Hoài vẫn chưa đến Bidong, mà cũng chưa viết thư cho anh từ trại khác, liệu có chuyện gì xảy ra với chị ấy chăng? Em hãy đến bệnh viện tìm xem chị ấy còn ở đó không nhé.

Tôi chạy liền đến bệnh viện, vào thẳng phòng trực y tá, với tư cách người nhà bệnh nhân, xin gặp chị Hoài để nói lời cảm tạ. Một chị y tá cho biết:
-  Chị Hoài nghỉ làm rồi em ơi.
-  Từ khi nào hở chị?
-  Cỡ bốn, năm tháng.

Trời ơi, đúng là lúc chị nói với tôi dự tính vượt biên. Tôi hồi hộp:
-  Vậy chị cho em địa chỉ nhà chị Hoài để em ghé thăm.
-  Khỏi ghé em ơi, chị Hoài vượt biên đến Thailand rồi.

Tôi run run:
-  Thiệt không chị? Chị ấy đến Thái hay Bidong, Mã Lai?
-  Đến Thái! Chị ấy có gửi thư và hình cho tụi chị, nếu em muốn xem thì ngày mai quay lại chị cho xem.

Tôi thở phào, trở về nhà, nhưng cả đêm thao thức với những nghĩ suy, tại sao chị ấy không viết thư cho anh Hai như đã nói với tôi? Tôi bèn đưa ra hai giả thuyết, thứ nhất, có thể trên đường vượt biển chị đã đánh mất hành lý và địa chỉ của anh Hai (giả thuyết này có nhiều khả năng xảy ra, vì hai người anh của tôi đi vượt biên đều gặp tình trạng này, kẻ thì làm rơi trên biển, người thì đánh mất lúc di chuyển từ ghe nhỏ qua tàu lớn). Giả thuyết thứ hai, có thể nào chị đã gặp gỡ một tình yêu chung chuyến tàu hoặc chung trại tỵ nạn, nên không còn ý muốn liên lạc với anh Hai?

Rồi tôi cũng đi vào giấc ngủ với niềm vui, là chị Hoài đã thoát được nơi chốn này, đến được bến bờ tự do như mong ước. Còn chuyện sau đó, dù là giả thuyết một, giả thuyết hai, hay giả thuyết ba, bốn, năm, sáu ...gì chăng nữa, với tôi, cũng đều là một kết thúc vừa ý.

Anh Hai, sẽ nhớ những ngày được cô y tá dễ thương cứu giúp trong hoàn cảnh “hoạn nạn khốn khó”. Chị Hoài, sẽ không quên cảm xúc xao động nhẹ nhàng khi chữa trị cho một bệnh nhân có cái tên giả “đặc biệt”.

Anh Hai, chị Hoài, và tôi, người chứng kiến và kể lại câu chuyện này, cùng có một kỷ niệm đẹp mỗi khi nhớ về quãng thời gian sống dưới chế độ “Xã Hội Chủ Nghĩa- Xuống Hố Cả Nút”, khi mà “cây cột đèn có chân cũng muốn ra đi”!

Edmonton, Tháng 3/2025
KIM LOAN
 

Ý kiến bạn đọc
14/04/202511:27:39
Khách
Ui, chuyện dễ thương quá. 2 nhân vật chị Hoài và anh Hai Biển Cả đều xứng đáng đươc hưởng tự do và phải chi họ gặp nhau cho có happy ending.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.