Hôm nay,  

Đức Hạnh Cao Quý

21/03/202500:00:00(Xem: 2122)

minh-họa-Đinh-Trường-Chinh
Minh họa của họa sĩ Đinh Trường Chinh
 
Xin tri ơn thầy Thích Tâm Đức
Xin tri ơn tác giả Nguyễn Tường Bách qua tác phẩm Mùi Hương Trầm
Chúc Thanh 
 
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt.
 
Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật.
 
Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn.
 
Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
 
Người dân vùng quê Tây Tạng nổi tiếng là có tín tâm, có lòng tin sâu xa vào phật pháp mà không cần phải có trình độ hiểu biết cao siêu.
 
Ở miền Kongpo có rất nhjiều tu viện, tu viện Jokhang ở Lhasa là nổi tiếng đẹp và linh thiêng. Nơi đây thờ tượng phật Thích Ca là Sa Môn Cồ Đàm thời niên thiếu, ngài được người Tây Tạng tôn kính và gọi là một Rinpoche, Jowo Rinpoche, là vị đức hạnh cao quý.
 
Tượng phật này nguyên thủy ở Trung Hoa, xưa được một bà công chúa Trung Hoa lấy chồng là vua Tây Tạng, bà thỉnh tượng mang về Jokhang để thờ, bái lạy.
 
Người dân tương truyền rằng tượng phật Jowo Rinpoche là linh thiêng nhứt và đền Jokhang là ngôi đền đẹp nất ở Tây Tạng. Ai ai quanh vùng cũng nghe tiếng cũng mong muốn được đến viếng đền và đảnh lễ ngài Jowo Rinpoche, mệnh danh là phật đức hạnh cao quý.
 
Truyện kể rằng, có một thanh niên quê mùa là Ben (Benoit) ở miệt quê Kongpo cách xa đền Jokhang rất xa, từ lâu anh làm lụng vất vả và dành dụm tiền bạc và chỉ mơ ước trong đời được một lần đến viếng Sa Môn Cồ Đàm được Tây Tạng hóa tại ngôi đền đẹp nhất vùng Lhasa ấy.
Rồi một ngày nọ, sau những chuyến đi vất vả, anh cũng đến được kinh đô Lhasa. Anh đi thăm các tu viện nơi đào tạo các tăng sĩ, rồi vào đảnh lễ đức phật Jowo Rinpoche.
 
Bức tượng cao to như người thiệt, trên kia, ngài toát ra những gì tôn quý, tuy rất thầm lặng nhưng làm cho Ben xúc động đến rùng mình sung sướng. Anh toát mồ hôi như được tắm mát và rưng rưng nước mắt hạnh phúc, ngài đó, ngài trước mặt Ben đó.
 
Anh muốn quỳ gối đảnh lễ bậc tôn kính, nhưng mấy lần, lần nào anh cũng bị vướng vì đôi bottes dài quá làm anh không quỳ gối được, thêm cái mũ vải cũ kỹ trên đầu, cứ mỗi lần anh nghiêng mình, chưa kịp cúi xuống lạy, là cái mũ chết tiệt đã rơi nhẹ nhàng xuống đất. Anh chàng Ben quê mùa vụng về, ngặt là anh có nhiều tín tâm hơn là thiên về các phép lịch sự khéo léo của người ở kinh đô.
 
Sau cùng Ben bèn cởi bỏ đôi ủng và cái mũ vãi, anh đập rơi bụi rồi hồn nhiên đặt hết chúng lên lòng bức tượng và thầm nói: «thưa ngài Rinpoche ngài giữ dùm con mấy cái thứ lỉnh kỉnh đặng con tĩnh tâm chiêm bái và đảnh lễ ngài.»
 
Lạy phật xong anh đi vòng quanh bệ thờ và nhìn ngắm phật từ bốn phía, nhìn ngắm các loại đèn sáng rỡ. Anh cũng xin bánh cúng ăn cho đỡ đói lòng… anh đói và xung quanh đây đâu có gì để mua ăn đâu. Sau cùng anh hồn nhiên mời đón phật về Kongpo, là quê hương anh bất cứ ngày giờ nào thuận tiện với ngài.
 
Anh làm nghề mổ heo và anh vui sướng hứa khi đó phật về, anh sẽ làm một con heo ngon nhất, quay thơm vàng để đãi ngài. Anh khẩn khoản mời và rất hồn nhiên khấn vái, sau cùng anh tin là ngài Jowo Rinpoche đã nhận lời, dù rằng anh không hề biết là phật không ưa sát sinh mỗi ngày như anh.
 
Ngay lúc anh đang hí hửng nói về tài quay heo rộn ràng của anh thì cánh cửa đền bật mở, vị sư già thủ từ bước vô và giựt mình chợt thấy đôi giầy dính bùn và cái mũ vải đầy bụi… nằm thu lu trong lòng đức phật!
 
Ngài định đưa tay tính chụp chúng mang ra chỗ khác. Bỗng có một tiếng nói từ xa xăm rót vô tai ngài, rất rõ ràng: «ngừng tay, đừng làm di động chúng, những thứ này là đồ dùng cần thiết của đứa học trò ta từ xa tới.»
 
Vị sư già thu tay lại, xin lỗi và nhẹ nhàng bước ra ngoài sau khi đã khép kín cửa điện, để cho một mình Ben tự do bái lạy, kể lể và mời mọc.
 
Rồi sau đó, Ben cũng phải lạy từ giã và về quê làm việc. Khi anh về đến quê Kongpo, anh đã nghe người dân làng đồn đại là anh đã đi thăm viếng đức phật ở thủ đô Lhasa, được thưa chuyện với ngài là đức hạnh cao quý và mời được ngài về quê anh.
 
Người ta kể rằng ngài đức hạnh cao quý về Kongpo thiệt, theo lời mời của Ben, vì Ben đã thấy ngài hiện ra trước mắt anh, lung linh trong một dòng suối mát trong vùng quê. Và nhiều người cũng thấy ngài như anh.
 
Mãi mãi về sau này, người dân miền Kongpo vẫn đi quanh hồ nước có in dấu tích ngài Jowo Rinpoche đang mỉm cười và họ bái lạy tượng phật đức hạnh cao quý bằng cách nằm và cúi đầu sát mặt đất.
 
Thủ đô Lhasa và đền Kongpo tuy có xa miền quê Kongpo, nhưng người dân Tây Tạng Kongpo luôn sống với niềm tin là vị phật đức hạnh cao quý luôn ở gần họ. Bên cạnh họ.
 
Với tính cách đối xử vô phân biệt, không chọn lọc, đức phật đã làm lan tỏa lòng từ bi vô biên. Ngài rải tâm từ cùng khắp nơi nơi chủ ý tạo ra sự bình đẳng giữa mọi chúng sanh, giữa muôn loài trong vô cùng khắp nẻo ta bà thế giới.
 
A Di Đà Phật
Chúc Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.