Hôm nay,  

Bây Giờ Mình Đi Đâu?

28/03/202500:00:00(Xem: 2525)

Picture1
Immigrants deported from the U.S. arrived in Panama City.
Photo by Matias Delacroix - Associated Press (For The New York Times)
 
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
 
Cả ba người đều đeo khẩu trang màu trắng. Hai người đi phía ngoài cột tóc sau gáy, thành một túm nhỏ. Chắc là nữ. Một người mặc quần cụt, một người mặc quần dài ống rộng. Người bên ngoài còn co cánh tay, nâng một cái túi trước bụng, trong túi có vật gì đó ló ra ngoài trông như chai nước. Vậy là họ cũng biết lo cho mạng sống của họ. Nước là thứ quan trọng. Người ta nhịn đói lâu được nhưng nhịn khát thì khó. Người đi phía trong tóc ngắn, hẳn là nam. Cũng có thể là nữ. Vì tóc xuôi vai thả sau lưng khó nhận ra. Người này bị hai người kia che khuất nên chỉ thấy anh (hay chị) ta mặc thứ quần bó ống. Người đi phía trong này đeo cái ba lô to, đầy ắp, cao gần tới đầu. Hai người kia đeo ba lô nhỏ hơn tụt thấp xuống phía sau lưng. Nặng nên xệ xuống, hay nhẹ nhưng quá mệt, không còn sức xốc lên. Hình chụp lúc họ đang rảo bước, chân trước chân sau. Không có gì cho thấy là họ đang trò chuyện. Cũng có thể là họ đang trao đổi những câu đối đáp nhấm nhẳng.
 
Chị ơi, họ đưa mình đi đâu đây. Ai mà biết. Sao họ không cho mình ở lại. Mình đâu xin xỏ gì nhiều. Chỉ cần một chỗ, nhỏ bé, chật hẹp gì cũng được, nhét cả nhà vào một xó cũng xong mà. Mình có dám đòi hỏi gì nhiều đâu. Thôi im đi. Nói lảm nhảm hoài.
 
Bên phải, phía trước họ là bức vách có giấy dán tường đầy hình những tòa dinh thự, mỗi tòa nhà có ba ngọn tháp, bên trên mỗi đỉnh tháp có một lá cờ, cả ba lá cờ đều có màu trắng và đều xuôi theo hướng gió chĩa về phía họ. Hai bóng điện trên trần phía bên phải họ, hắt bóng họ ra ngoài, phía người nhiếp ảnh viên cầm máy ảnh chĩa về phía họ để chụp tấm hình này.
 
Một cơn ho thắt họng. Tiếng thở hì hạch như sắp đứt hơi. Họ đang nghĩ gì? Họ có nghĩ gì không?
 
Đừng ho nữa có được không? Chúng nó thấy ho, chúng nó nhốt riêng một chỗ bây giờ. Em đói quá. Sao họ không cho mình ăn cái gì. Lát nữa người ta có cho mình ăn không. Im đi. Nói thì có bớt đói chút nào không?
 
Dáng đi của họ - nhìn như thể - đang lao về phía trước. Như những kẻ tuyệt vọng, không còn gì để bám víu, đành nhắm vực sâu mà lao tới. Những ánh mắt lạc thần, xoáy về phía trước đã nhòe nhoẹt những mong đợi, đã tàn mạt những ước mơ. Họ phải lao về phía trước vì túi hành lý nặng trĩu sau lưng kéo ghì họ lại hay vì họ đang nhắm mắt đưa chân. Họ đang buông thả.  Nhưng có gì trong mấy cái ba lô mà nặng trĩu hai vai như thế?
 
Mày nhét cái gì vào ba lô mà nặng muốn gẫy lưng? Vài bộ quần áo nhà thờ giúi vào tay hôm nào. Em mừng quá, chưa kịp nói cảm ơn người ta thì đã phải chạy tán loạn. May mà trốn kịp. Trốn có được bao lâu đâu! Ít ra cũng được vài hôm. Được vài hôm êm ấm mà không thích à! Im đi. Lảm nhảm hoài.
 
Những cái ba lô to xù. Gia tài có bao nhiêu dồn cả vào đấy. Vải vụn thôi mà sao trĩu nặng. Bước đi lảo đảo chúi về phía trước. Dáng đi của những sinh vật bị mũi súng thúc vào lưng. Phải chúi về phía trước. Mặc, đến đâu thì đến. Họ đã kiệt sức sau bao nhiêu ngày tháng chồng chất lo âu. Trốn tránh. Sợ hãi bóng đêm. Sợ tiếng máy xe đang chạy bỗng nghe như chậm lại ngoài đường phố. Sợ những bóng người. Sợ những người lạ. Sợ những người quen. Sợ người vẫn thuê mình cắt cỏ khoảnh sân trước nhà họ. Sợ người vẫn đưa mình ra đồng nhặt sâu trên lá. Sợ tiếng chó sủa. Sợ tất cả mọi thứ. Ở thiên đàng nhưng vẫn sợ, bởi thiên đàng không còn là nơi thiên thần dạo bước, thiên đàng không còn là nơi chốn bình yên. Thiên đàng bây giờ là nơi loài quỷ dữ ngự trị.
 
Mình cũng giỏi chứ. Cái gì cũng sợ mà mình vẫn sống, vẫn thở. Bây giờ thì hết sợ rồi. Tụi bay đừng nói nhảm nữa được không. Bây giờ mình không còn phải trốn tránh nữa. Bây giờ mình được tự do. Làm ơn im đi mà.
 
Thì ra họ đã có một thời lén lút ở thiên đàng, bấp bênh miền đất hứa. Hạnh phúc như thế được bao lâu rồi? và bây giờ họ sẽ về đâu? Họ có quê nhà để về không?
 
Họ vẫn lầm lũi đi. Họ có còn gì để nói với nhau không? Chắc là có. Nhưng mà họ sẽ nói với nhau những gì?
 
Từ từ xem nào, đi đâu mà vội thế. Đi mau không lỡ chuyến xe bây giờ. Chuyến xe nào? Im lặng. Một lát lại cái giọng giục giã, Đi gì mà chậm như rùa thế. Nó bỏ lại đây thì chết cả đám. Mệt muốn đứt hơi đây này. Chân đang đau muốn chết. Làm gì mà đau? Bữa hôm chạy trốn, em trượt chân ngã, chị quên rồi à? Cũng phải cố mà đi cho mau. Nó bỏ lại bây giờ. Nó bỏ lại đây làm gì. Đến trước hay đến sau gì thì cũng đến thôi, việc gì phải cuống lên.
 
Một khoảnh khắc lặng im để thở. Rồi lại giọng cằn nhằn, Ban nãy có quên cái gì không? Mình có gì đâu mà quên. Toàn nói nhảm không à!
 
Im lặng. Chợt tiếng một người, Chết rồi, bỏ quên đồ rồi. Quên cái gì? Giọng hoảng hốt ngắt lời. Quên cuốn sách. Cuốn sách gì? Cuốn sách học Anh văn. Tìm ở đâu ra mà có sách Anh văn. Bữa hôm xe lấy rác đầu khu phố, em bới đống recycle - phải đọc là recycle không? - tìm được cuốn sách, trong cái thùng màu xanh bỏ bên lề đường. Mày nói tiếng Mỹ nghe tức cười quá. Người ta đuổi là phải rồi, mà ai bỏ sách cho mày nhặt vậy? Cuốn sách bị ướt hết nhưng vẫn còn đọc được chữ. Sách học tiếng Anh. Mày cất ở đâu mà quên? Im lặng. Người ta tống cổ mình đi còn học hành làm gì nữa. Lại im lặng. Tiếng thở dồn dập. Tiếng ho khan. Sao mà ho hoài thế. Mấy viên thuốc cảm bà Smith - phải tên cái bà Mỹ hiền lành tóc bạc là Smith không - thuốc bà Smith cho có mang theo không? Không. Sao không mang theo? Bây giờ đau ốm thì làm sao? Mang làm sao được mà mang. Người ta khám xét từng món đồ trước khi quăng cái ba lô lại cho mình. Có vài viên thuốc cảm cũng bị tịch thu.  
 
Im lặng. Tiếng chân kéo lẹt xẹt trên nền xi măng. Một lát. Người ta đưa mình đi đâu vậy nhỉ? Ai mà biết. Đi mau lên, ở đó mà lải nhải mãi. Đi đâu cũng vậy thôi. Thắc mắc làm gì. Một khoảng lặng, rồi có tiếng thở dài và, Đưa đi đâu thì cũng vậy thôi. Mình như đã chết rồi. Người chết thì có sợ gì ba cái thứ cảm cúm vớ vẩn.
 
Trước mặt họ là cả một vùng tối ám. Nhìn không rõ hết cái hình người đi trước họ. Chỉ thấy một cẳng chân, một cái ba lô to xù, và một cái đầu trùm khăn. Hai bàn chân đi dép Nhật. Một bọc đồ kéo lê trên nền xi măng.
 
Chị ơi, bây giờ mình đi đâu? Chị không biết đâu. Đừng hỏi chị nữa, nhé.
 
Tôi đang kể câu chuyện của họ. Tôi thấy họ trên một tấm hình đã gần hai tuần lễ rồi. Tấm hình được ghi chú là “Di dân trục xuất từ nước Mỹ, đến Panama City.” Tấm hình làm tôi buồn. Mỗi lần nhìn nó tôi lại ứa nước mắt. Tôi cứ hình dung tôi là họ, thiên đường sau lưng vừa đóng sập cánh cửa, mũi súng lạnh băng dí sau gáy, bóng tối trước mặt như loài yêu quái đang sắp sửa nuốt sống tôi. Tôi lạnh người. Tôi rùng mình, hoảng kinh với cảm giác ấy. Cảm giác ấy cứ cắn xé tôi. Tôi nghĩ tôi sắp chết. Rồi khi tôi lôi tôi ra được khỏi vùng tăm tối ấy, tôi thấy xấu hổ vì tôi không làm gì để giúp họ. Bởi ngày xưa tôi cũng là thứ vô tổ quốc, một thứ stateless trên giấy tờ và ngoài đời sống, một thứ bị chèn ép đến phải bỏ xứ mà đi như họ. Tôi tù đày, đói khát, tôi trốn chui trốn nhủi, tôi lao ra biển, đâm nhào vào cõi chết để tìm ra đường sống. Nhưng tôi may mắn hơn họ. Tôi lao đao, và tôi ngã chúi vào những vòng tay nhân ái.
 
Còn họ thì không.
 
Những con người bị xua đuổi như những kẻ ăn mày mạt hạng. Những con người bị săn đuổi như những con thú không thể giết lấy thịt làm món ăn, không thể vặt lông đem đi dệt áo, những con-thú-người vô tích sự. Từ hôm báo New York Times đăng tấm hình này đến nay đã gần hai tuần rồi. Bây giờ họ ở đâu?
 
250322

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.