Khi giảng dạy môn phương pháp nghiên cứu (research methods) cho sinh viên đại học, H. Colleen Sinclair (giảng sư nghiên cứu tâm lý xã hội thuộc Louisiana State University) thường bắt đầu bằng một câu hỏi đơn giản: “Có ai trong lớp mang theo tờ 20 đô la không?” Dù ngày nay hiếm ai còn mang tiền mặt trong người, nhưng vẫn có sinh viên rút ra một tờ tiền.
Sinclair sẽ hỏi tiếp: “Các bạn có biết vì sao tờ 20 đồng lại được thiết kế như thế này không?” Sinh viên đưa ra nhiều giả thuyết, phần lớn liên quan đến yếu tố lịch sử hoặc biện pháp chống làm giả tiền. Những suy đoán ấy cũng rất hợp lý. Tuy nhiên, còn một lý do khác ít người biết đến: kiểu chữ lớn và hình ảnh trên tờ tiền được thêm vào vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000 nhằm giúp 3.5 triệu người dân Hoa Kỳ bị suy giảm thị lực có thể sử dụng tiền dễ dàng hơn.
Một trong những người góp phần vào thiết kế này là nhà tâm lý học thực nghiệm Gordon Legge, cũng bị yếu thị lực. Nghiên cứu của ông và các cộng sự đã góp phần định hình nên một thiết kế giúp hàng triệu người sử dụng tiền giấy dễ dàng hơn, không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn ở nhiều nơi khác trên thế giới.
Ở nhiều quốc gia, kích cỡ tiền giấy và tiền xu thay đổi theo mệnh giá, giúp người khiếm thị dễ phân biệt. Nhờ nghiên cứu này, Hoa Kỳ tránh được việc phải tái thiết kế toàn bộ tiền tệ theo nhiều kích thước khác nhau.
Sinclair kể cho sinh viên nghe câu chuyện về quá trình thiết kế lại đồng tiền để minh họa rằng: nghiên cứu khoa học đã và đang định hình cuộc sống của họ, đôi khi theo những cách âm thầm và không ai ngờ.
Tuy nhiên, sau khi Tổng thống Donald Trump ban hành sắc lệnh hành pháp hạn chế các dự án liên bang liên quan đến chương trình DEIA, hàng loạt những dự án nghiên cứu tương tự như tái thiết kế tiền có nguy cơ mất nguồn ngân sách tài trợ.
Là một nhà tâm lý học xã hội, Sinclair từng tham gia các nghiên cứu được xếp vào nhóm DEIA. Ngành tâm lý học xã hội cũng phát triển mạnh trong Thế Chiến II khi các nhà nghiên cứu nỗ lực lý giải những hành vi tàn bạo bắt nguồn từ định kiến, điển hình như cuộc diệt chủng Holocaust.
DEIA là tên gọi chung của những dự án hướng đến việc giảm thiểu bất công và bảo đảm mọi người đều có cơ hội cũng như quyền được đối xử công bằng trong môi trường học đường, công sở, luật pháp, nhà ở và chăm sóc sức khỏe.
Mặc dù trọng tâm của các nghiên cứu DEIA thường hướng đến những đối tượng chịu thiệt thòi lâu dài, chẳng hạn như các nhóm sắc tộc thiểu số và người tàn tật, nhưng những thành quả nghiên cứu này lại có phạm vi ứng dụng rộng rãi trong xã hội, góp phần giúp mọi người phát huy tiềm năng sẵn có.
Phạm vi của danh sách từ khóa liên quan đến DEIA do chính quyền Trump đề ra rộng đến mức gây ảnh hưởng đến cả những nghiên cứu không thuộc nhóm DEIA. Theo phản ánh từ giới khoa học, nhiều công trình bị đánh giá sai và có nguy cơ bị dừng tài trợ, chỉ vì có sự xuất hiện của các khái niệm như “đa dạng sinh học” (biodiversity).
Thực tế cho thấy, chính những nghiên cứu DEIA đã tạo ra những thay đổi sâu sắc cho xã hội trong nhiều thập niên. Điều này khiến người ta phải tự hỏi: liệu việc cấm đoán các nghiên cứu chỉ dựa trên từ khóa có hợp lý hay không? Phong trào phản đối DEIA dường như bắt đầu từ những lời chỉ trích các lớp đào tạo nhân sự về hòa nhập và công bằng trong môi trường công sở. Thế nhưng, danh sách các từ bị kiểm soát giờ đây đã vượt ra khỏi phạm vi của những chương trình huấn luyện đơn thuần ấy.
Các nghiên cứu DEIA không chỉ phát hiện vấn đề, mà còn mang đến những giải pháp thiết thực. Những chính sách như dịch vụ phiên dịch cho người khiếm thính, chế độ nghỉ sinh con cho cả cha và mẹ, chính sách trả lương công bằng, nghỉ lễ cho các tôn giáo khác nhau, hay các phòng riêng dành cho những bà mẹ đang cho con bú – tất cả đều có nguồn gốc từ các nghiên cứu và vận động thuộc lĩnh vực DEIA.
DEIA: một di sản khoa học bền vững
Thực ra, nghiên cứu DEIA không phải là điều gì mới mẻ – cái mới ở đây chỉ là cái tên gọi. Từ thập niên 1950, những công trình mang tinh thần DEIA đã đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi xã hội Hoa Kỳ. Điển hình là nghiên cứu nổi tiếng của hai nhà tâm lý học Kenneth và Mamie Clark, chỉ ra rằng việc phân biệt học sinh theo chủng tộc (cho trẻ da trắng và trẻ da màu học ở các trường riêng biệt) gây tổn hại nghiêm trọng đến tâm lý và sự phát triển của trẻ, đặc biệt là trẻ em da màu. Nghiên cứu này được trình bày trước Tối Cao Pháp Viện và đã góp phần quan trọng trong việc ban hành phán quyết lịch sử chấm dứt chính sách phân biệt chủng tộc trong hệ thống trường công lập.
Cho đến ngày nay, tinh thần của nghiên cứu DEIA vẫn đang tiếp tục được kế thừa và phát triển. Các công trình nghiên cứu mới cho thấy rằng, dù luật pháp không còn cho phép phân biệt chủng tộc, nhiều trường học tại Hoa Kỳ vẫn thường mang tính “đồng nhất sắc tộc,” tức là học sinh trong một trường chủ yếu là người da trắng, hoặc là người thiểu số. Nhưng sự phân chia này ngày nay là kết quả của các yếu tố phức tạp khác như điều kiện cư trú, mức thu nhập, và cấu trúc cộng đồng nơi học sinh sinh sống.
Những năm 1970, chính các nghiên cứu DEIA đã thúc đẩy ban hành Đạo luật Giáo dục cho Trẻ em Tàn tật (Education for All Handicapped Children Act) 1975. Từ đó, hệ thống giáo dục chuyên biệt phát triển, giúp học sinh mắc các bệnh về thần kinh như khó đọc, ADHD, tự kỷ... đạt được tiến bộ đáng kể trong học tập.
Bước sang những năm 1980, một lần nữa nghiên cứu DEIA lại chứng minh vai trò thiết yếu khi giúp biến HIV/AIDS, căn bệnh từng cướp đi sinh mạng hàng triệu người và ảnh hưởng nặng nề đến cộng đồng LGBTQ+, không còn là bản án tử. Nhờ các nghiên cứu này, y học hiện nay đã có thuốc phòng ngừa HIV, bao gồm cả ngăn chặn lây nhiễm từ mẹ sang con.
Hoặc cách đây không lâu, Sinclair vừa nghe được tin tức về một đột phá khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu thần kinh liên quan đến trầm uất sau sinh. Nhưng vì rong danh sách từ ngữ bị gắn mác là DEIA có các từ ngữ như “phụ nữ” và “thai phụ,” nên những nghiên cứu quý giá về trầm uất sau sinh cũng có thể bị xem là nhạy cảm và có nguy cơ bị cắt tài trợ.
Khoa học DEIA: tiên trách kỷ, hậu trách bỉ
Những phát hiện từ nghiên cứu DEIA đã chứng minh rằng sự đa dạng trong đội ngũ nghiên cứu có thể tạo ra môi trường thúc đẩy tư duy sáng tạo và đổi mới. Điều này cho thấy chính sự đa dạng về văn hóa và con người đã góp phần quan trọng trong việc định hình sự hưng thịnh của nước Mỹ.
Sẽ có không ít người nghi ngờ, cho rằng “tất nhiên nghiên cứu DEIA sẽ kết luận rằng DEIA là hữu ích.” Nhưng thực tế không phải vậy. Khoa học DEIA cũng không ngần ngại nhìn nhận những mặt còn hạn chế của chính mình, đặc biệt là trong các khóa đào tạo về giảm thiên kiến, như hướng dẫn về ngôn ngữ bao trùm (inclusive language), hay hiểu và tôn trọng văn hóa của người ta (cultural sensitivity). Thậm chí, ngay cả những chương trình đào tạo hân sự khác không thuộc DEIA cũng đang vấp phải nhiều phê bình về hiệu quả thực tế.
Trong khoa học, sự phản biện và điều chỉnh là điều tất yếu. Các khoa học gia liên tục trao đổi, phân tích những hạn chế và tìm kiếm các phương án khả thi hơn. Dựa trên nghiên cứu mới, họ lại tiếp tục đưa ra các cải tiến, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực tiễn của các chương trình đào tạo.
Chẳng hạn, triết lý “mù màu sắc tộc” (racial colorblindness, tạm hiểu là không phân biệt màu da), vốn xuất phát từ mong muốn đối xử bình đẳng không phân biệt chủng tộc, nhưng lại tạo ra nghịch lý: nhiều người tuy khẳng định rằng họ không quan tâm đến chủng tộc, nhưng hành vi của họ lại cho thấy điều ngược lại. Một nghiên cứu chỉ ra rằng, người da trắng theo triết lý này thường không muốn hẹn hò với người da đen nhiều hơn so với những người không theo.
Sự né tránh chủ đề sắc tộc trong mọi tình huống có thể khiến người ta dè dặt, cảm thấy không thoải mái khi nói đến chủng tộc. Theo một nghiên cứu, trẻ em trong sáng vô tư thường nhận biết sắc tộc tốt hơn trong trò chơi Đoán Người (Guess Who).
Đây chỉ là một vài thí dụ cho thấy khoa học DEIA đã giúp chúng ta hiểu rằng, dù xuất phát từ thiện chí, triết lý “mù màu” thực chất là một con dao hai lưỡi. Trong một số trường hợp, nó không chỉ gây bất lợi cho các nhóm thiểu số mà còn cho cả cộng đồng đa số. Hoặc tệ hơn, triết lý này có thể phản tác dụng, khiến thiên kiến nặng nề hơn.
Có giải pháp thay thế?
Dù còn nhiều điểm chưa hoàn thiện, nhưng phần lớn các nhân vật chủ chốt trong phong trào phản đối DEIA lại ủng hộ triết lý “mù màu.”
Thí dụ như Thống đốc Texas Greg Abbott, ông này đã ban hành sắc lệnh hành pháp GA-55 để loại bỏ các chính sách DEIA tại các trường đại học công lập và thay thế bằng quan điểm “không phân biệt màu da.” Tuy nhiên, ông vẫn giữ lại các chính sách ưu tiên trong tuyển sinh và cấp học bổng đối với con em cựu sinh viên – vốn được chứng minh là mang lại nhiều lợi ích cho sinh viên da trắng.
Trong lễ nhậm chức lần hai, Trump hứa hẹn sẽ xây dựng “một xã hội không nhìn màu da, chỉ coi thực lực.” Nghe có vẻ lý tưởng, nhưng các nghiên cứu DEIA lại cho rằng mô hình “trọng dụng nhân tài” kiểu này không thực sự mang lại “công bằng” trong xã hội hiện nay – vì không phải ai cũng có xuất phát điểm giống nhau.
Những khác biệt về gia cảnh, tài chánh, giáo dục… khiến một số người có lợi thế lớn hơn người khác rất nhiều ngay từ ban đầu. Mà việc phấn đấu vươn lên, đổi đời là không hề dễ dàng, nhất là trong thời đại ngày nay.
Không thể làm ngơ
Bất chấp những lời kêu gọi bài trừ DEIA, phần lớn người dân Hoa Kỳ không có cái nhìn tiêu cực về những sáng kiến này. Một khảo sát cho thấy 52% người Mỹ vẫn vẫn đánh giá cao việc áp dụng DEIA tại nơi làm việc. Hơn nữa, ngay cả những người da trắng, nam giới hay cử tri Cộng Hòa, cũng không cho rằng mình bị thiệt thòi gì bởi các chính sách DEIA.
Suy cho cùng, việc cấm đoán một cách cứng nhắc đối với bất kỳ nghiên cứu nào có dính dáng đến DEIA đang làm chậm bước tiến của nền khoa học. Trong khi đó, những bất bình đẳng mà nghiên cứu DEIA đang cố gắng xóa bỏ vẫn còn rành rành trong xã hội, từ tòa án, trường học, việc làm, hệ thống y tế, nhà ở, cho đến cả tỷ lệ nạn nhân bị bạo lực.
Không thể chỉ vì một số chương trình phòng chống ung thư chưa mang lại hiệu quả mong muốn mà bỏ xó toàn bộ các nghiên cứu về căn bệnh này. Làm vậy không thể khiến ung thư biến mất. Tương tự, những bất công trong xã hội sẽ không tự biến mất nếu chúng ta cố tình làm ngơ. DEIA đã hòa vào dòng chảy của nền khoa học hiện đại, và nếu cắt giảm tài trợ, chúng ta sẽ bỏ lỡ cả tương lai của những đột phá có thể cứu mạng hàng triệu người.
Cung Đô biên dịch
Nguồn: “Cuts to research into inequality, disparities and other DEIA topics harm science” được đăng trên trang TheConversation.com.
Trân trọng