Hôm nay,  

Nước Đi Ra Biển Lại Mưa Về Nguồn*

18/04/202500:00:00(Xem: 1787)

Ảnh 1

Bìa sách The Migrant Rain Falls in Reverse
(Ảnh: Kalynh)

“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”

Sau nửa thế kỷ với biết bao vật đổi sao dời, Tháng Tư, vẫn chưa bao giờ ngủ yên trong tâm trí người Việt – ở cả hai chiến tuyến. Ngày 30/4 của 50 năm trước không chỉ để lại cho Việt Nam một chương lịch sử thấm đẫm bi thương, mà vẫn tiếp tục là những trang sử mở đối với một thế hệ người Việt hải ngoại lớn lên sau chiến tranh. Trong số đó, bằng nhiều hình thức khác nhau có thể, có những người lặng lẽ tìm về nguồn cội. Vinh Nguyễn – với The Migrant Rain Falls in Reverse (tạm dịch: Nước Đi Ra Biển Lại Mưa Về Nguồn) – là một trong những người đó. Hành trình về nguồn của anh, vừa cô độc, vừa tuyệt vọng, vừa đầy ắp sự tưởng tượng, về một gia đình, một thế giới, một thân phận mà anh chưa bao giờ có, vì nó chưa bao giờ tồn tại.

Tác giả gọi The Migrant Rain Falls in Reverse là A Memory Of Vietnam – Một Ký Ức Của Việt Nam. Việt Nam đó là ngôi nhà nhỏ một lầu mà anh chỉ gắn bó đến năm 6 tuổi; là người cha đã biến mất bí ẩn khỏi cuộc đời của bốn mẹ con anh như chưa bao giờ tồn tại; là người mẹ tần tảo, lam lũ nơi xứ người nuôi bốn chị em anh thành người; là chính anh – một chàng trai mang trái tim đa cảm mong manh của người đồng tính. Một cuốn hồi ký nhưng không phải hồi ký. Vì hơn một nửa là hư cấu từ trí tưởng tượng của tác giả.

Nước Đi Ra Biển Lại Mưa Về Nguồn là cuốn hồi ký kể chuyện phi tuyến tính. Vinh dẫn dắt độc giả đi từ cánh cửa này sang cánh cửa khác với sự bất ngờ không đoán trước. Những diễn biến trong gần 300 trang sách của ba chương, như một thế giới viễn tưởng vừa hư vừa thực. Vừa mới ngồi trong nhà nghỉ ở Sài Gòn, nghe tiếng xe cộ náo nhiệt ngoài kia, tầng trên là tiếng khách trọ rổn rảng, âm thanh bộ phim thời thơ ấu vang lên từ chiếc tivi trong góc phòng, thì ngay sau đó, là cuộc đối thoại của hai mẹ con ở Toronto, Canada.

Sự sáng tạo của tác giả, phóng khoáng và mượt mà, như chính tâm hồn của anh.

“Để hiểu được những gì đã xảy ra với cha tôi và gia đình tôi, tôi cần phải nhào nặn ký ức, kéo căng sự thật, khơi dậy sự ham muốn. Tôi bày ra trước mặt mình tất cả những mâu thuẫn. Tôi phải tự tháo gỡ để tạo nên một câu chuyện. Vì vậy, tôi đã rơi lọt vào quá khứ, đón lấy những gì xảy ra, mạch lạc, không đứt gãy.

Cảm giác như tôi đang cố gắng giữ chặt cơn mưa đang rơi xuống đời.”

Chỉ với một buổi trưa lạnh và đầy gió của Toronto, Vinh dẫn người đọc quay về cái nóng oi bức của căn chòi trong trại tỵ nạn. Nơi đó, một viên đá lạnh là một vật thể xa xỉ và quý giá.

“Trong trại tị nạn, nước đá là một thứ xa xỉ. Nước đá là vàng. Chúng tôi mua của người dân địa phương gần đó. Cuộc mua bán diễn ra qua một lỗ hổng trên hàng rào. Tôi nhớ là ranh giới của trại không phải là bất khả xâm phạm. Hàng hóa, đồ vật và cả con người đều có thể lọt qua các khe hở của dãy hàng rào bằng tôn và thép gai. Nơi đó, những người lính canh nhận một vài tờ giấy ghi chú mà chúng tôi lén chuyển vào lòng bàn tay của họ.”

Vinh kể về giây phút cha mình ra đi trên giường bệnh ở bệnh viện, bên cạnh là mẹ anh và các chị anh. Vinh chọn làm người kể chuyện không có mặt – vì chuyến bay không đến kịp. Để rồi phần kế tiếp, anh thú nhận “Tôi đã giết cha mình.”

“Tôi đã muốn dành cho cha tôi những năm tháng mà ông chưa từng có và chưa từng sống, và rồi một điều gì đó đã thay đổi, những khao khát không thể bù đắp được sẽ được thỏa mãn bằng khả năng sáng tạo của chính tôi. Ông có thể là cái gì đó, bất kỳ ai, và tôi có thể là tác giả của số phận của chính tôi – của chính chúng tôi.
Đơn giản là tôi không thể tìm ra một cách nào khác. Tôi ngẩng đầu nhìn lên, mây đen kéo đến, bầu trời hỗn loạn.”

Vinh đã cho cha của anh chết một lần nữa. Rồi cũng chính anh, tự dằn vặt hỏi mình, “có phải tôi là đứa con độc ác không?” Có lẽ đây là hồi khốc liệt nhất, đắt giá nhất trong cuốn hồi ký – hư cấu của Vinh. Đây chính là cách mà trước đó, Vinh đã nói “Tôi phải tự tháo gỡ để tạo nên một câu chuyện” không bị đứt gãy, liền mạch và có hồi kết.

Cha của anh đã chết trên biển khơi năm đó? Cha của anh không lên tàu vượt biển? Cha của anh vẫn còn sống? Cha của anh đang sống hạnh phúc với gia đình của ông ấy? Vì sao ông không tìm mẹ con anh? Vì sao? Và vì sao? Những câu hỏi nhiều như mưa rơi xuống đời suốt gần 30 năm qua được Vinh chắt lọc thành một thân phận do anh đạo diễn, để trả lời cho chính anh. Anh cho cha của mình “chết một lần nữa” trong hồi ký – để quá khứ có câu trả lời.
Ngôn ngữ trong Nước Đi Ra Biển Lại Mưa Về Nguồn là ngôn ngữ đậm chất điện ảnh, và mang màu của tiểu thuyết liêu trai. Vinh miêu tả, sắp xếp những diễn biến trong cuộc đời anh, nhẹ nhàng như những cơn mưa nghiêng trút xuống mảnh đất nơi anh đang đứng, đang đi. Dù đó là những biến cố của sự mất mát, hay đó là giây phút nếm trải vị ngọt của nụ hôn đầu đời trên toa xe lửa với một chàng trai khác trên đất nước Nhật Bản, thì ngôn ngữ của Vinh vẫn miên man như dòng sông êm ả.

Ảnh-2

Tác giả Vinh Nguyễn (áo đen) tại VAALA 2025. (Ảnh Kalynh Ngô)

Chiến tranh, mất mát, chạy trốn, di tản, chết chóc, tha hương, định cư, vật lộn, sống còn,… những trạng thái này là mẫu số chung là hàng triệu triệu người Việt sau biến cố 1975. Trong đó có Vinh, và gia đình anh. Để rồi tất cả những gì xảy ra trong ‘The Migrant Rain Falls in Reverse’ – gần như gắn liền với những cơn mưa định mệnh trong đời của Vinh. Những cơn mưa – thực thể có thật của vũ trụ – lại mang cho Vinh sự tưởng tượng mầu nhiệm về những gì anh không có và đã mất trong cuộc đời. Như anh đã từng tưởng tượng cách mà cha của mình bất ngờ xuất hiện bên mẹ con anh trong trại tỵ nạn.

“Tôi tưởng tượng cha của tôi, giữa đêm khuya, nhấc một góc hàng rào lên và chui đầu qua đó. Tôi tưởng tượng cha bước đến nhẹ nhàng đến nơi chúng tôi đang ngủ. Tôi tưởng tượng cha vén tấm mùng chống muỗi, rồi nằm xuống cạnh chúng tôi. Tôi tưởng tượng tiếng dế kêu nỉ non trong đêm khhuya. Bình minh mang một màu cam rực rỡ.”

Ngày đó, Vinh sáu tuổi. Gần 30 năm sau, anh chỉ có thể viết bằng trí tưởng tượng cùng với một vài chi tiết do mẹ anh kể lại. Ngay cả sự tưởng tượng của Vinh về một giai đoạn phân ly, cũng mang đầy chất thơ, nhẹ nhàng, không hờn oán, không hận thù. Anh đi tìm bản sắc của mình bằng cách ráp nối những hình ảnh rời rạc của tuổi thơ, bới tung ký ức từ những mẫu đối thoại trong cuốn phim bộ Hong Kong của năm 1986, Ỷ Thiên Đồ Long Ký.

“Ngày đầu tiên đi học” của Vinh ở xứ xa lạ, giữa mùa Đông ướt át đầy tuyết trắng xóa của Toronto, gợi cho bất cứ ai, dù mang căn cứ di dân hay tỵ nạn, cũng phải cảm thấy được cơn mưa ấy đang thấm vào thịt da của mình.

“Ngày đầu tiên đi học, mẹ dẫn tôi đến trường. Đó là một ngày tuyết trắng xoá. Chúng tôi không nhìn thấy gì ở phía trước. Trời lạnh buốt. Lông mi của tôi dính vào nhau. Tôi cảm giác như hai gò má của mình đang nứt ra vì lạnh.

Khi đến trường, mẹ dúi vào tay tôi mảnh giấy nhỏ. ‘Nếu cuối ngày, con không thấy mẹ, đưa tờ giấy này cho người nào mà con gặp.’ Mẹ đọc địa chỉ, số điện thoại và tên của tôi. ‘Những gì người ta cần biết về con ở đây.’ Những chi tiết cần thiết về cuộc sống mới của tôi gói gọn trong một mảnh giấy vuông.
Cuối ngày, chuông tan học. Tôi đứng dậy bước ra cửa lớp. Tôi không nhìn thấy mẹ. Tôi sợ hãi. Tôi lấy mảnh giấy trong túi ra và đưa cho ai đó cao hơn mình. Tôi thấy khuôn miệng của họ chuyển động, nhưng những âm thanh đó vô nghĩa với tôi. Tôi gần như bậc khóc, hoặc có thể tôi đã khóc. Tôi ngồi một mình trong văn phòng, đầu cúi gầm nhìn xuống mặt đất…”

Rồi ký ức về một mùa tuyết khác, ở Calgary, khi Vinh học lớp Sáu. Mẹ của Vinh hứa sẽ mang đến trường cho anh bánh mì kẹp gà (McChicken sandwitch) vào buổi trưa. “Nhưng khi tôi nhìn ra ngoài trời và thấy trận bão tuyết, tôi biết mẹ sẽ không thể đến. Vào giờ cơm trưa, tôi ngồi bên cạnh những người bạn trong phòng tập thể dục, nói dối là tôi đã quên mang phần ăn của mình.

Một trong những giám thị đã gọi tên của tôi. Tôi tưởng rằng ai đó chú ý đến việc tôi quên mang phần ăn trưa và báo với nhà trường. Tôi đã nghĩ mẹ của mình sẽ gặp rắc rối vì điều này. Chúng tôi đi đến phòng hiệu trưởng, và tôi thấy mẹ đứng ở góc phòng. Cả người phủ tuyết trắng xóa, tay cầm túi giấy màu nâu có những sọc vàng. Cái túi ướt đẫm gần như muốn vỡ vụn.

Người giám thị nói nhỏ, “Mẹ của em đây.”

Tôi đã khóc khi đọc đến những dòng này. Thân phận người phụ nữ, thân phận người tị nạn Việt Nam, mong manh như bông tuyết, nhưng cố hữu và kiên cường trong cơn bão.

Nhưng, Vinh chỉ quyết định đi tìm quá khứ của mình, của cha, của gia đình, sau cái chết của Don – người mà Vinh xem như bạn tâm giao, “người kề cận nhất mà tôi có theo nghĩa một người cha.” 

Cái chết của Don đã xuyên vào lổ hỏng của vết thương trong quá khứ của Vinh. Nó làm bùng nổ một điều gì đó mà anh biết - thực sự sợ hãi với từng thớ thịt trong con người của Vinh, vốn đã quá hạn từ lâu. Trong gần ba thập kỷ, Vinh đã cố gắng không đối mặt với cái chết bí ẩn của cha anh. Nhưng đứng trước cái chết của Don, Vinh biết, một lần nữa, anh đã thật sự mất một người.

Từ đó, Vinh nhận ra “Về nhà” là một ý tưởng chưa từng được anh thật sự nhìn nhận. Bởi vì đó là “một huyền thoại dành riêng cho những người chưa bao giờ phải ra đi, những người không giống tôi, những người lớn lên có cả cả cha và mẹ, những người không phải là người đồng tính. Nhà là điều gì đó mà những người tị nạn và nhập cư như tôi mong muốn nhưng nó vẫn nằm ngoài tầm với. Trong những cuốn sách tôi đã đọc, mục đích của người tị nạn là tìm về nhà, và các vấn đề của chúng tôi được giải quyết bằng cách đạt được cái thuộc về mình.”

Vinh không kết thúc cuốn hồi ký The Migrant Rain Falls in Reverse (Nước Đi Ra Biển Lại Mưa Về Nguồn) của mình bằng hình ảnh hoặc chi tiết cụ thể. Trang cuối khép lại, nhưng mở ra cho Vinh một thế giới quan mới, một ảo giác mà có lẽ, anh sẽ tiếp tục đi tìm trong cuộc đời của mình.

 “Tôi với tay ra đón bắt, trên những đầu ngón tay của tôi chỉ là một mảnh vải trắng lơ lửng trong không trung.” Khi đó, Vinh đang ngồi sau người tài xế xe-ôm, chạy trên đường phố tấp nập như mắc cưỡi của Sài Gòn.

Kalynh Ngô
 
*: Mượn câu thơ Thề Non Nước của Tản Đà

Vinh Nguyễn là một nhà văn và nhà giáo dục. Anh có tác phẩm đăng trên Brick, Literary Hub, The Malahat Review, PRISM international, Grain, Queen’s Quarterly, Current và MUBI’s Notebook. Anh cũng là biên tập viên của tác phẩm phi hư cấu của The New Quarterly – về người tị nạn, người di cư; biên tập viên của các sách học thuật Refugee States: Critical Refugee Studies in Canada và The Routledge Handbook of Refugee Narratives; và là tác giả của Lived Refuge: Gratitude, Resentment, Resilience. Vinh đã đoạt Giải John Charles Polanyi về Văn học. Anh hiện sống tại Toronto, Canada.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Bạn tắt hết điện thoại, truyền hình, bạn gập lại các quyển sách đang đọc. Bạn ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, khóa kín cửa, hay bạn ngồi trên một tảng đá trong rừng, hay bạn ngồi giữa chợ, điều ấy không quan trọng. Bạn không cần phải thực hành bất kì một lễ nghi tôn giáo, yoga hay thiền nào cả.
Một trong những thành tựu quan trọng đáng tự hào của cộng đồng người Việt là sự thành công của những cây bút người Mỹ gốc Việt, kể câu chuyện Việt góp phần vào nền văn học lưu vong Việt Nam cũng như góp mặt vào dòng văn học chính Hoa Kỳ. Bài giới thiệu sách này thuộc loạt bài giới thiệu các tác giả, tác phẩm thuộc dòng văn học thế hệ thứ nhất-thứ hai, trong thời điểm 50 Năm Nhìn Lại, từ biến cố tháng Tư, 1975.
Bạn có thích đọc thơ không? Người ta nói, mỗi người Việt là mỗi nhà thơ. Nhà thơ sao lại không đọc thơ? À, như vậy, bạn có đọc thơ. Dĩ nhiên bạn thích đọc thơ hay. Nhưng làm thế nào để biết bài thơ hay? Có bài thơ được nhiều người khen hay quá trời, sao bạn lại nghĩ là dở. Hoặc bạn hí hửng khoe bài thơ hay vừa đọc được, người bạn đọc xong, lắc đầu. Sao vậy? Thơ hay không bảo đảm người đọc đồng ý với nhau. Hãy hỏi bạn Trí Thông Minh Nhân Tạo (A.I.), trông cậy anh ta biết nhiều, hiểu rộng, có thể cho đôi lời vắn tắt.
Tôi có một thói quen xấu khi đọc sách – luôn bắt đầu bằng cách mở trang cuối và đọc hàng cuối rồi gấp sách lại xem đầu óc mình nghĩ gì. Hôm nay, mở cuốn “Stories from the Edge of The Sea”, cuốn sách dày 216 trang với 14 truyện ngắn của tác giả người Mỹ gốc Việt Andrew Lâm, tôi lẩm nhẩm: “Hãy đứng đến giây phút cuối cùng, và bạn sẽ không bao giờ, không bao giờ phải đứng một mình.“* “Giây phút cuối cùng”? Không hiểu sao hình ảnh Việt Nam những ngày cuối tháng Tư, 1975 hiện về. Dẫu chỉ là một đứa bé con 6 tuổi vào thời điểm này, nhưng lớn lên và sống với những hệ lụy lịch sử kéo dài từ cái ngày định mệnh đó, ngay trên mảnh đất quê hương bị đánh mất, những mảng đời, những câu chuyện, những ám ảnh, những mất mát luôn là những gì mà chính tôi, bạn bè tôi, gia đình tôi, quê hương, dân tộc tôi, vẫn gồng mình hứng chịu… dẫu nửa thế kỷ đã trôi qua. Tôi hiểu mình sẽ bắt đầu đọc cuốn sách này bằng một sự “khó ở” trong lòng của một độc giả người Việt sống xa quê hương, trong tâm trạng u uẩn

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky tuyên bố sẵn sàng gặp Tổng thống Nga Vladimir Putin "trực tiếp" tại Istanbul vào thứ Năm để bàn về việc chấm dứt chiến tranh.



NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.