Hôm nay,  

Cái Bẫy Chó

25/04/202500:00:00(Xem: 1269)

cai bay cho
Hình minh họa được vẽ bởi AI
                                                           
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm. Lịch sử cũng đã chứng minh rõ ràng chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ ngay tại cái nôi cách mạng tháng 10 tại quê hương sản sinh ra nó, nước Nga Sô-Viết.

Nhà giảng thuyết người Mỹ gốc Đức William J.H. Boetcker (1) (1873-1962) có viết trong bài The Ten Cannots, 10 Điều Không Thể, rất nổi tiếng của ông, có 2 câu vẫn còn rất đúng cho đến ngày nay: You can not help the poor by destroying the rich. Bạn không thể giúp người nghèo bằng cách tiêu diệt người giàu. You cannot help men permanently by doing for them what they can and should do for themselves. Bạn không thể mãi mãi giúp người khác điều mà chính họ có thể và phải làm cho chính bản thân họ.

Người cộng sản với khẩu hiệu “cướp của người giàu đem cho người nghèo” là hoàn toàn sai. Cùng đồng nghĩa với câu “cướp chính quyền về tay nhân dân” cũng hoàn toàn trái với nhân sinh quan của loài người trong một xã hội văn minh. Họ chỉ biết tiêu diệt, giết chóc, tàn phá để đạt được mục đích, cho dù họ biết là sai; và khi phá hoại xong, họ lại không biết phải xây dựng lại như thế nào. Đây là sự bất hạnh lớn nhất của dân tộc, đưa cả nước trở về thời Đồ Đá, thua kém các dân tộc khác trong vùng.

Nếu ai hỏi tôi nghĩ gì về chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam, tôi sẽ không ngần ngại trả lời chỉ bằng 1 chữ: ĐÓI. Vâng, ngoài sự bất hạnh của cả nước, cái nghèo-đói lan rộng trên đất nước từ Nam ra Bắc, nạn đói kinh hoàng mà người cộng sản mang lại cho người dân Việt Nam. Người dân ai cũng đói đến vàng mắt. Những mái nhà xiêu vẹo dọc theo con đường đất tung bụi mù nơi miền thôn dã; những con hẻm vắng lặng ở thành phố, nơi người già và trẻ con gầy gò ngồi thẫn thờ. Trộm cắp xảy ra khắp nơi. Ý thức không cao hơn cái bao tử.

Người cộng sản vốn ngu dốt, cộng thêm chính sách của họ là điên cuồng, đập đổ tất cả những điều tốt đẹp để xây dựng lại từ đầu, dù họ biết là sai; họ phải tiêu diệt và phá hủy tất cả những gì của chế độ trước để rồi không biết phải xây dựng cái gì. Cái đói khát không chỉ hiện diện trên từng khuôn mặt hốc hác, mà còn in sâu vào từng bước chân nặng nề của những người cha, người mẹ trên con đường kiếm sống, vất vả, lam lũ nuôi đàn con. Cái nghèo đói còn để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong ký ức mọi người, cho đến nhiều năm sau này.

Một ngôi làng nghèo nàn ở ven đô Sài Gòn, 3 năm sau ngày “giải phóng”, vợ chồng ông bà Gia và ba đứa con, hai trai một gái, sống trong một mái nhà tranh vách đất giống như hầu hết mọi người ở quê thời bấy giờ. Gia đình ông bà từ thành phố đi “kinh tế mới” về vùng này đã hai năm nay, nhìn họ không có vẻ lam lũ và đen đúa như những người dân quê khác, nhưng họ vẫn đói, vẫn phải ăn để sống. Ông bà đã bán sạch sẽ những gì họ có thể bán để sống sót trong thời buổi ngăn sông cấm chợ này.

Cả tháng nay họ phải ăn khoai củ thay cơm, gạo chỉ còn vài lon sữa bò, phải để dành nấu cháo cầm hơi. Hôm nay, trời oi bức, thỉnh thoảng một cơn gió thổi tung bụi đất trước sân, tiếng ve kêu inh ỏi, chói tai trong bóng cây hàng rào trước cổng nhà, muốn ngủ cho quên đói cũng không xong. Cái nóng như đồng lõa với cái đói, khiến mọi người không muốn bước ra khỏi nhà. Thằng Đạo, con trai lớn của ông Gia, đang nằm trên cái chõng tre, ngó trân trân lên trần nhà; ông Gia đang nằm đong đưa trên cái võng đan bằng cỏ Lác, ngó mông lung ra ngoài đường. Cả hai như đang chăm chú nhìn mà không thấy gì.
Một con chó vàng gầy gò, chỉ còn da bọc xương, hai hàng vú của nó xẹp lép, không còn chút sữa nào cho đàn con đang đói khát, bộ lông xơ xác bám bụi, đang đi vào cổng nhà ông. Tới trước hiên nhà, nó ngừng lại, đánh hơi mong tìm kiếm một chút thức ăn thừa. Cặp mắt ông Gia chợt sáng lên vui mừng. Ông nhẹ nhàng ngồi dậy, khẽ kêu con trai:

- Mày vào trong bếp, lấy cho tao củ khoai mì và sợi dây thừng.

Thằng Đạo nhìn ba nó, đôi mắt ông đang chăm chăm nhìn con chó vàng ngoài hiên, nó hiểu ngay sự việc. Nhanh như cắt, nó cũng nhẹ nhàng đi vào bên trong và trở ra với một sợi dây nylon và một mẩu khoai mì trên tay. Nó bẻ một miếng nhỏ khoai mì, ném về phía con chó, vừa kêu:

- Kiki, tới đây, tao cho mày ăn.

Con chó vẫn đứng im, đôi tai vễnh lên, mắt nhìn hai cha con với vẻ đề phòng, không tỏ ra thèm muốn. Hai cha con ông Gia vừa dụ dỗ vừa đưa miếng khoai mì còn sót lại gần con vật hơn. Nó lùi lại một bước, mắt vẫn nhìn miếng khoai vẻ thèm thuồng. Ông Gia ném thêm một mẩu khoai nữa, rồi hai cha con dừng lại, im lặng quan sát. Một hồi lâu, không cưỡng lại cơn đói, con chó tiến nhanh đến, đớp miếng khoai và chạy ra xa, dừng lại và nhai ngấu nghiến. Ăn xong, nó trở lại gặm miếng khoai còn lại và lại chạy ra xa để thưởng thức tiếp. Ăn xong hai miếng khoai mì, con chó vẫn còn thòm thèm, nhìn hai cha con ông Gia như muốn xin thêm.

Ông Gia ghé tai đứa con trai thì thầm thật nhanh rồi ông đích thân bước vào trong bếp. Lát sau ông đem ra một cái nồi nhôm cũ, trong đó có ít cháo lỏng dưới đáy nồi. Ông thắt một cái nút thòng lọng và quấn sợi dây nylon quanh cột nhà trong khi Đạo vẫn cố nhử con chó vàng vào trong nhà. Quen mùi, không cưỡng lại sự thèm muốn, con chó từ từ theo vô, bạo dạn hơn vì nó cảm thấy hai người này không có vẻ gì muốn hại nó. Ông Gia đặt cái nút thòng lọng xuống nền nhà, ông nắm chặt đầu dây kia và vòng nó qua cái đinh lớn đóng vào cột nhà để giăng võng.

Hai cha con kiên nhẫn, từng chút một, từng chút một, họ ném hết củ khoai mì, ông Gia đưa nồi cháo đến gần mũi con chó. Nó đánh hơi mạnh hơn và bạo dạn đến gần đưa mũi ngửi. Ông Gia chậm rãi kéo cái nồi để gần cột nhà và nhẹ nhàng đặt nút giây thòng lọng lên miệng nồi. Hai cha con ngồi xa ra một chút, nín thở theo dõi từng cử động của con chó trong khi tay kia ông vẫn nắm chặt một đầu dây. Con chó không cưỡng lại được mùi thơm, từ từ đến gần nút dây. Nó nhìn hai cha con ông Gia một lần nữa để chắc rằng họ không làm gì nó.

Con chó lè lưỡi liếm nhanh vào đáy nồi cháo và lùi lại một bước, tiếp tục dò xét cha con ông chủ nhà. Không thấy gì khả nghi, con chó lần này bạo dạn, tiến lại gần, xục mạnh vào nồi cháo và ăn thật nhanh. Ông Gia giật mạnh, sợi dây thắt vào cổ con chó khiến nó hoảng hốt chạy ra phía cửa. Càng chạy, sợi dây thắt càng chặt, con chó rên lên ư ử đau đớn vì bị kéo lê về phía cột nhà. Hai cha con thở hồng hộc, ra sức kéo mạnh sợi dây trượt trên cái đinh lớn, kéo cổ con chó lên cao hơn. Con chó dãy dụa càng mạnh thì sợi dây lại càng thắt chặt hơn. Con chó yếu dần, hai chân sau dãy dụa, móng chân cào mạnh trên sàn đất, cả thân mình nó run lên bần bật, miệng sùi bọt mép, nước mắt nó chảy ra, cặp mắt lồi ra ngoài như van xin.

Tiếng con chó rít lên yếu dần. Hai cha con ông Gia vẫn ghì chặt sợi dây cho đến khi con chó oằn mình lên lần cuối cùng, bốn chân nó cứng đơ, rồi mới chịu nằm im. Chờ thêm vài phút nữa, ông Gia đá vào mình con chó, biết chắc nó đã chết, họ thả lỏng sợi dây và kéo con chó ra sau bếp.

Phòng bên kia của gian nhà, sau bức liếp tre, tôi đang lên con sốt rét rừng, nằm đắp cái mền rách cũ kỹ, nhàu nát mà rét run từng cơn, tôi chứng kiến tất cả sự việc từ đầu đến cuối, qua khe hở mà không hề lên tiếng. Tôi mướn căn phòng trong nhà ông bà Gia để lấy chỗ đi về trong lúc đi phá rừng ở Bàu Cạn. Miệng đắng nghét, người hầm hập nóng, tôi với tay lấy ly nước đầu giường uống một hơi, rồi nằm xuống tiếp tục với cơn sốt còn váng vất khiến tôi không thể đứng dậy được.

Chiều tối hôm đó, sau khi khóa cổng và đóng cửa nhà cẩn thận, gia đình ông bà Gia ngồi bên mâm cơm có thịt, dưới ngọn đèn dầu leo lét, mùi thức ăn bốc lên thơm phức khiến tôi chảy nước miếng. Tôi được mời ăn bữa cỗ thịnh soạn như một trao đổi ngầm là sự im lặng đồng lõa; nhưng tôi ăn không nổi, thịt con chó dai như cao su và toàn là xương, tôi lại đang bệnh nặng nên chẳng còn biết ngon là gì.

Ông bà Gia cố ép tôi húp chén cháo cho khỏe, để mau giải cơn sốt rét rừng. Tôi cố đưa chén lên miệng, húp một miếng nhỏ mà cổ họng đắng nghét. Tôi cám ơn và xin phép trở lại cái chõng tre của mình. Hình ảnh con chó dãy dũa đau đớn hồi trưa vẫn còn ám ảnh, khiến tôi không thể nuốt nổi miếng nào dù rằng đã lâu tôi không có miếng thịt nào trong một thời gian rất dài.

Sáng hôm sau, nhà hàng xóm kế bên, bà Huấn đứng bên kia bờ rào, chửi đổng qua bên đây:

- Giời ơi là giời! Tiên sư chúng mày ăn cắp chó nhà bà, con chó đang nuôi con nó mà chúng mày nỡ lòng nào đi giết nó. Giời ơi là giời!

Bà tốc cả áo sống lên, thậm chí đưa cả “một bộ phận không nhỏ của nguời dân” ra mà chửi, mệt vô nghỉ, rồi ra chửi tiếp. Tôi nằm đắp mền, bịt tai lại, vẫn nghe rõ mồn một. Bên này, ông Gia hối thúc gia đình phi tang các chứng tích, đem dấu tất cả đồ ăn còn lại, chôn sâu tất cả lông và xương chó dưới bụi chuối già, đồng thời ông cho mở radio hết cỡ bài “Tiếng chày trên sóc Bombo” theo kiểu “Tiếng hát át tiếng bom” một thời được nhai đi nhai lại, điếc cả tai, ở cái loa đầu xóm.

Ngày 13 tháng 02, 2025, ông tổng bí thư, người đứng đầu đảng cộng sản Việt Nam, tại phiên họp bất thường của quốc hội lần thứ 9, khi so sánh Singapore với miền Nam Việt Nam thời kỳ trước 1975, đã phát biểu như sau: “Nhìn sang Singapore, xưa họ nói được sang Việt Nam chữa bệnh là điều mơ ước, 50 năm nhìn lại, giờ mình lại mơ được sang SP để khám bệnh”.

Có vậy mới biết ngày xưa VNCH đã phát triển vượt bậc so với miền Bắc Việt Nam và là nơi mơ ước của các nước trong vùng Đông Nam Á. Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị lãnh tụ tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng, sau nhiều năm lưu vong, đã đúc kết về chủ nghĩa cộng sản như sau: "Cộng sản là loài cỏ dại, mọc lan trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc sinh ra từ rác rưởi của cuộc đời. Cộng sản sinh ra từ đói nghèo và ngu dốt, lớn lên bằng dối trá và bạo lực và sẽ chết đi trong sự khinh bỉ và nguyền rủa của nhân loại."

Ngày nay, thực tế lịch sử cho thấy những thất bại nặng nề của chủ nghĩa cộng sản để lại cho loài người.  Mong một ngày không xa, Việt Nam sẽ từ bỏ cái chế độ duy trì quyền lực bằng bạo lực, không còn kiểm soát thông tin và quyền tự do trong nước, để dân Việt có thể sánh vai với các nước Đông Nam Á, mà không còn phải qua các nước láng giềng đi làm thuê.
 
NGUYỄN VĂN TỚI. Tháng 04/2025. 50 năm nhìn lại.

PREFERENCES:
 
                                            

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky tuyên bố sẵn sàng gặp Tổng thống Nga Vladimir Putin "trực tiếp" tại Istanbul vào thứ Năm để bàn về việc chấm dứt chiến tranh.



NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.