Hôm nay,  

Năm mươi năm, Một chặng đời…

25/04/202500:00:00(Xem: 907)
 
Quê hương đó chưa một lần về lại
Dòng sông xưa giờ chắc đã xa nguồn
Một lần hẹn để rồi ra đi mãi
Ở phương này sương gió dục mưa tuôn[1]
 
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975[2] là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.

Là một người Việt nam lưu vong từ một cuộc chiến tranh thất bại, sự tồn tại và ý nghĩa cuộc sống của tôi đến ngày hôm nay đích thực biểu hiện sự thừa hưởng di sản tinh thần từ một cuộc chiến tranh. Tôi quan niệm Định mệnh lịch sử của mỗi cuộc chiến tranh chính là kết quả vinh quang hay nhục nhằn mà những con người liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến cuộc chiến tranh thừa hưởng. Trong suốt nửa thế kỷ qua, tôi đã sống cùng bóng tối của sự nhục nhằn mà cuộc chiến dành cho những kẻ thua cuộc. Với thân phận chính trị con người, thực ra không cần thiết khi đề cập đến chính nghĩa hay phi nghĩa của một cuộc chiến tranh mà chỉ nên nói Thắng - Bại hoặc Được - Thua, bởi vì sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt cả hai phía đều thừa hưởng trọn vẹn di sản của nó. Lúc ấy dù muốn phủ nhận hay chấp nhận, cuộc sống của những con người thoát thai từ cuộc chiến tranh vẫn cứ tiếp tục; và năm mươi năm trôi qua đã có hơn ba thế hệ người Việt nam lưu vong sống tại nước ngoài từ khi cuộc chiến tranh Việt nam chấm dứt vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
 
Là con người dẫu cụ thể hay trừu tượng ai cũng có một quê hương. Quê hương là biểu tượng tình cảm gắn bó đối với nơi chốn mình sinh ra, lớn lên, hay trải qua một thời gian đủ dài cho bất kỳ ai có dịp ngoảnh lại bảo rằng “ở đó tôi một thời sinh sống, một thời kỷ niệm…” mang ý nghĩa một chặng đời trải qua của mình. Đấy là một định nghĩa mang tính phổ quát hai chữ Quê Hương, và sâu xa hơn nữa vì tính chất lịch sử và truyền thống dân tộc, quê hương còn ràng buộc sinh mệnh con người trên căn bản nòi giống cha ông.  

Nếu tôi hoặc chúng ta bằng lòng thân phận con người với đầy đủ trang bị tinh thần như thế thì nhìn lại ý nghĩa quê hương trong lòng con người Việt Nam lưu vong như thế nào? Phải chăng chúng ta chỉ là những rong rêu đeo bám trên dòng sông lạc loài, ngày một xa cội nguồn gốc rễ hay có thể đã quên mất cội nguồn gốc rễ? Thời đại toàn cầu hóa giúp con người gần gũi với những sự kiện, thông tin thường xuyên cập nhật cho nhận thức có thể giúp ích phần nào những kẻ sống với tâm thức lưu đày, hay mặc cảm đánh mất quê hương, hoặc cùng cực hơn nữa bị quê hương ruồng bỏ chối từ như tôi hôm nay. Niềm kiêu hãnh, lòng tự tôn trong thân phận chính trị của kẻ không chịu sống chung một bầu trời với người cộng sản không đủ sức che dấu, xoa dịu những bức thiết, đau buồn của “một con ngựa cất tiếng hí dài mỗi khi nghe gió Bấc” trở về bi thương vô cùng tận[3].

Đấy là một bi kịch đối với những con người Việt nam lưu vong thế hệ đầu tiên đến Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cho đến hôm nay thế hệ ấy còn rất ít và trong đó có tôi, tuy cuộc sống trên quê hương thứ hai thật đầy đủ, thật trọn vẹn cho một giấc mơ hoàn hảo, nhưng trong hồn tôi vẫn khôn nguôi nỗi ám ảnh lưu đày vì mãi chèo chiếc thuyền đời mình lênh đênh trên dòng sông xa cội nguồn gốc rễ.

Rất nhiều người Việt như tôi tại Hoa Kỳ mãi ước mơ mong mỏi một ngày đất nước có tự do dân chủ để trở về, nhất là sau khi cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt và chế độ cộng sản trên thế giới hầu như hoàn toàn tan rã.  Tuy vậy, đất nước Việt Nam thống nhất vẫn mãi trơ trơ dưới sự cai trị của đảng cộng sản với chiêu bài đối mới kiểu “treo đầu dê bán thịt chó.”  Họ không mỏi mệt tuyên truyền vai trò độc tôn không thay thế được của đảng cộng sản, để được vĩnh viễn cai trị đất nước Việt nam như chế độ quân chủ chuyên chế của những ông vua các thế kỷ trước.   

Bước sang thế kỷ 21, thế giới “toàn cầu hóa” cùng cuộc cách mạng công nghiệp, hai đất nước cộng sản Trung quốc và Việt nam còn lại sau chiến tranh lạnh, tiếp tục thỏa hiệp với phương thức đổi mới chiến lược kinh tế kiểu kinh tế tư bản chủ nghĩa dấu mặt hầu sống còn. Người dân từng sống dưới chế độ cộng sản với lý thuyết kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa tập trung, triền miên chịu đựng sự đói nghèo, thiếu thốn mà biểu tượng rõ ràng nhất “thời bao cấp”.  Chính sách “Đổi mới” cho phép kinh tế cá thể, người dân được tự do buôn bán làm ăn, nông dân giã từ hợp tác xã tích cực lao động sản xuất trên đồng ruộng gia đình, hưởng được thành quả trực tiếp từ mồ hôi nước mắt của mình đã khiến đất nước phát triển nhanh chóng như phép lạ. Phương thức kinh tế tư bản là nền kinh tế căn bản sản xuất, thương mại thị trường tự do mà mọi người trong nước trực tiếp tham gia. Nền kinh tế đổi mới này mang đến sự thỏa mãn nhu cầu trao đổi cho tất cả mọi người, thế nên dân tộc có đầu óc thực tiễn như người Trung quốc trong hai thập niên đã vươn lên vị trí giàu có và dần trở thành cường quốc kinh tế. Đảng cộng sản Việt nam theo chân Trung quốc đổi mới, giải phóng đất nước thoát khỏi sự đói nghèo, từng bước nâng cao đời sống người dân và Việt nam có được bộ mặt thịnh vượng phát triển hôm nay. Và cũng từ kết quả này mà thế giới dường như quên mất chủ nghĩa cộng sản một thời gây bao đau thương điêu đứng cho loài người.    


Sự phát triển của Trung Quốc ngày hôm nay còn làm thay đổi chiến lược kinh tế chính trị toàn cầu. Vấn đề đặt ra là chủ nghĩa ý thức hệ không còn thiết yếu quan trọng trong việc xây dựng thể chế cai trị, lãnh đạo đất nước, mà chính phương thức làm ăn quản lý kinh tế mới chính yếu quyết định giúp đất nước giàu có phát triển. Lúc này người ta nói với nhau về GDP[4] tức Tổng Sản Phẩm Quốc nội của mỗi nước trước khi tìm hiểu đất nước đó được cai trị lãnh đạo như thế nào. Kinh tế phát triển nâng cao GDP, và lợi tức đầu người người dân trong nước. Nếu trước kia ai cũng bảo “đấu tranh để tồn tại” thì ngày hôm nay “đấu tranh để lợi tức đầu người nâng cao.” Thế là đủ và rõ ràng ý thức hệ chủ nghĩa thực sự lỗi thời lạc hậu, và ngày hôm nay tổng quát thế giới có hai nhóm nước đều áp dụng phương thức kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nhóm một từ lâu với thể chế tự do dân chủ như Mỹ, liên minh châu Âu, Úc, Nhật bản, Nam hàn … và nhóm nước thứ hai với nền kinh tế tư bản kiểm soát đi kèm chế độ độc tài độc đảng kiểu Nga, Trung quốc, Việt nam… Con người từ đó tôn vinh quyền tự do lựa chọn bất kỳ phương thức cai trị, lãnh đạo nào miễn nó có thể mang lại sự giàu có cho mọi người, hơn là phân tích phê phán bản chất chế độ ảnh hưởng như thế nào đối với con người nhân văn.  Trung quốc ngày nay là hình mẫu đối với những nước còn phân vân trước việc chọn lựa một thể chế chính trị thế nào để cai trị đất nước mình. Do đó các từ Tự do, Dân chủ giờ đây tuy định nghĩa không thay đổi, nhưng giá trị ý nghĩa thực tế nhẹ hơn nhiều so với nguyên bản gốc.

Thế giới đổi thay quá nhanh về mặt nhận thức chính trị. Những mâu thuẫn xung đột đấu tranh trong lĩnh vực chính trị không còn mang tính chiến thuật và chiến lược ngày trước. Lý do cuộc cách mạng toàn cầu hóacách mạng công nghệ làm đảo lộn những phương cách, sách lược cũ trước kia. Nó là lý do chính làm thay đổi thế giới và tái tạo quan điểm chính trị, kinh tế và xã hội ngày hôm nay.

Bên cạnh đó sự phát triển ghê gớm của trí tuệ nhân tạo AI[5] hầu như đưa con người đến một bến bờ mới mà chính họ không biết thực ảo như thế nào. AI tạo ra được kết quả mà con người ước muốn, khát khao. Ngày hôm qua tôi ngồi nghe nhạc Jazz của thập niên 1920s, 1930s trên TV với hiện diện đầy đủ ban nhạc, ca sĩ, khán thính giả trong không gian và thời gian của hơn thế kỷ trước do AI tạo ra. Phải nói tôi thưởng thức một cách khoái lạc với cách tiếp cận mới mẻ này, và tôi được biết trong tương lai không xa AI còn làm nhiều điều kinh khủng hơn thế nữa. AI đang trên đà thu ngắn khoảng cách ước mơ và sự thật để có thể đạt được kết quả phi thời (imtempestive) do nó định hình tái tạo công trình quá khứ trên cả không gian ba chiều.

AI chính là bản sao của trí tuệ con người và không ngừng lũy tiến khả năng của mình bằng vào tốc độ và tham số công trình mỗi ngày. Ngày hôm  nay AI đã gần như cân bằng với trí tuệ của một con người có chỉ số thông minh tối đa, tuy nhiên AI còn vượt qua con người bằng cách có thể cùng một thời điểm tạo ra bản sao trí tuệ gấp nhiều lần, giống như máy in có thể in nhiều và in nhanh bản sao trong một khoảnh khắc nhất định. Về mặt nghệ thuật AI có khả năng làm thơ, viết văn, vẽ tranh, viết nhạc… như ước mơ của con người và sẽ từng bước cải tiến khả năng cho đến khi đạt được kết quả mong muốn là những kiệt tác (magnum opus) ra đời phục vụ nhu cầu nghệ thuật. 

Tôi nghĩ một ngày AI có khả năng thay thế cả những giá trị nhân văn mà ngày trước chúng ta khăng khăng bảo rằng nó độc nhất vô nhị. Ngày nay AI tuy không làm mất đi những niềm tin giá trị đó, nhưng nó có khả năng làm người ta quên đi những giá trị một thời tồn tại như một yếu tố định vị thân phận con người. Và nếu ai đó có nhớ lại tự hỏi đồng thời cũng tự bào chữa cho sự quên lãng của mình chỉ vì AI có khả năng thay thế mọi thứ mà chính con người ước muốn thay thế. AI thực sự biểu tượng khát vọng và tham vọng của loài người hôm nay.

Trong khi đó nỗi thương nhớ, hoài niệm Quê Hương (Nostalgia) đối với những kẻ lưu đày chúng ta như thế nào, nếu đảng cộng sản cứ mãi ăn trên ngồi trốc đất nước quê hương Việt Nam?  Chắc chắn chúng ta mãi mãi hoài vọng một quê hương chỉ có trong ký ức và lưu giữ trong  tiềm thức. Vậy AI một ngày sẽ biến chúng ta trở thành khán giả trước một sân khấu đang trong thời điểm chúng ta lớn lên và trưởng thành tại quê nhà. Thời gian sẽ bị xóa đi một khi chúng ta nhập được vào vai “đứa con đi hoang trở về”. Và lúc ấy qua AI, chúng ta hoàn tất nỗi thèm muốn một quê nhà tiền chiến tranh. Tôi thực sự hình dung một sân khấu kiểu Kabuki mà AI tái tạo để rồi thành kẻ tuẫn đạo trên hành trình tìm về một thiên đường đã mất. Tâm lý của những con người chịu kiếp lưu đày năm mươi năm thông qua AI sẽ xóa đi ranh giới giữa ảo và thực và dành cho chúng ta một nụ cười: Nụ cười của kẻ sống với khung cảnh êm đềm, một quê nhà trong buổi  hoàng hôn! 

Lê lạc Giao
4/12/2025

[1] Thơ Dương Hoài

[2] The Fall of Saigon

[3] Hồ mã tê bắc phong

[4] Gross domestic Product

[5] Artificial Intelligence

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.