Khi đạt được tuệ giác viên mãn dưới cội bồ-đề, Đức Phật đã nhận ra rằng tất cả chúng sanh đều sẵn có trí tuệ, đức tánh của Như Lai (1). Nghĩa là trên mặt lý tánh, bản thể, chúng sanh và Phật bình đẳng như nhau. Đức Phật có thể đạt đến trí tuệ vô thượng thì chúng sanh cũng có thể đạt được điều đó.
Từ sự minh định về Phật tánh hàm tàng nơi tất cả chúng sanh, Đức Phật đã chỉ dạy phương thức tu tập, hành trì Tứ Diệu Đế - Bốn Chân Lý Vi Diệu (2); qua đó, minh thị một cách bình đẳng rằng ai, bất cứ người nào, chúng sanh nào, sinh ra trong cõi đời này đều không thể tránh khỏi khổ đau của sanh, già, bệnh, chết, và nếu nỗ lực tu tập, thực hành miên mật, đúng phương pháp (do ngài hướng dẫn), cũng đều có thể thoát ly khổ não, đạt đến niết-bàn an vui.
Như vậy, chúng sanh bình đẳng trong khổ đau thì cũng bình đẳng trong sự tu tập để vượt khỏi khổ đau.
Từ nhận thức về tính cách bình đẳng này, Đức Phật tuyên bố: “Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau.” Tuyên ngôn này mở ra sự khai phóng trong tâm thức cá nhân và cộng đồng xã hội, và đã được Đức Phật làm gương trong sự thành lập Tăng-đoàn.
Tăng-đoàn là cộng đồng tăng lữ chung sống hòa hợp, bình đẳng dưới sự lãnh đạo tinh thần của Đức Phật, và kỷ cương của giới luật. Trong cộng đồng ấy, không có sự phân biệt giữa người gánh phân và hàng vương giả (như Ưu-ba-ly và Đức Phật, từng là Thái-tử vương quốc Ca-tì-la-vệ), người kỹ nữ và hàng quốc thích (như hoàng tử Nan-đà, em cùng cha khác mẹ của Phật), thợ hớt tóc hay người thương gia... Tất cả những người từ các giai tầng xã hội đều được Đức Phật đón nhận vào hàng ngũ xuất gia một cách bình đẳng với chủ trương hòa kính (3), tôn trọng lẫn nhau trong mọi sinh hoạt.
Đối với người cư sĩ tại gia, Đức Phật dạy Bốn Nhiếp Pháp (4) để họ vừa tu tập, vừa góp phần chuyển hóa xã hội. Cư sĩ tại gia là những sứ giả của Phật, sống và tiếp cận xã hội hàng ngày, nên sự thực hành Bốn Nhiếp Pháp của họ chính là cách để cảm hóa tự thân, và cũng là cảm hóa xã hội, xóa dần biên giới giữa các giai cấp, phú quý hay tiện dân, chủ nhân hay nô bộc...
Nói chung, Đức Phật ra đời không ngoài việc đánh thức Phật tánh sẵn có của mỗi chúng sanh, hướng dẫn con đường thoát khổ để đạt đến an vui thực sự. Con đường ấy đặt trên nền tảng của tánh Phật bình đẳng; cũng là con đường góp phần cho niềm phúc lạc an sinh của các cộng đồng xã hội trong toàn cõi nhân gian.
Tưởng niệm ngày sinh của Đức Thế Tôn, người con Phật từ ý tưởng đến ngôn ngữ và hành động, cần tiếp xử bình đẳng với tất cả mọi người, tất cả chúng sanh; trong thì nghiêm túc thực hiện pháp Lục Hòa, ngoài thì tận tụy thực hành Tứ Nhiếp Pháp. Người con Phật xuất gia hay tại gia, cần đứng trên tất cả để có thể nhìn thấy mặt thực và mặt trái của con người trong xã hội, quốc gia. Nhìn cho đúng, nghe cho rõ, tự trong bản chất của mỗi vấn đề mới có thể nói năng và hành động đúng Chánh Pháp. Được vậy mới hiển lộ được Phật chất trong cuộc đời.
___________
(1) “Đại địa chúng sanh giai hữu Như Lai trí tuệ, đức tánh” nghĩa là tất cả chúng sanh đều hàm hữu trí tuệ, đức tánh của Như Lai; hoặc “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh” – Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
(2) Tứ Diệu Đế (hay Tứ Đế) là bốn Chân lý (Sự thật) vi diệu, cao quý: Khổ đế: Chân lý về sự khổ; Tập đế: Chân lý về nguyên nhân dẫn đến khổ; Diệt đế: Chân lý về sự an vui, giải thoát (hoàn toàn mọi khổ đau); và Đạo đế: Chân lý về con đường tu tập viễn ly thống khổ.
(3) Lục hòa (hay Sáu pháp hòa kính - Lục hòa kính): 1. Thân hòa đồng trú: sống chung trong một trú xứ/hoàn cảnh một cách hòa hợp, bình đẳng; 2. Khẩu hòa vô tránh: giữ sự hòa hợp trong nói năng, ngôn ngữ giao tiếp, không tranh cãi vì những bất đồng; 3. Ý hòa đồng duyệt: giữ tâm ý hòa hợp, hoan hỷ, không chống trái nhau; 4. Kiến hòa đồng giải: trao đổi về kiến giải trong sự hòa hợp, cảm thông; 5. Giới hòa đồng tu: bình đẳng hòa hợp trong việc tuân thủ giới pháp; 6. Lợi hòa đồng quân: bình đẳng chia sẻ quyền lợi từ nhỏ đến lớn trong sự hòa hợp, vui vẻ.
Trong Kinh Châu-Na, Đức Phật dạy Sáu Pháp Ủy Lao, được HT. Tuệ Sỹ chú thích như sau: “Ủy lao pháp 慰 勞 法, thường được biết là sáu pháp hòa kỉnh hay lục hòa. Tập Dị 15 (No Đại 26.1536, tr.431b), gọi là sáu pháp khả hỷ. Pāli: cha sārāṇiyā dhammā.” (Xem Kinh Châu-Na, Phẩm 18, trang 257-258, Trung A-hàm Quyển 4, Thanh Văn Tạng Tập 6, Kinh Bộ VI, Hội Ấn Hành Đại Tạng Kinh VN xuất bản năm 2022).
(4) Tứ nhiếp pháp (hay Tứ nhiếp sự): 四 攝 法; S: catvāri-saṃgrahavastūni - Bốn cách tiếp dẫn chúng sinh của Đại thừa : 1. Bố thí (布 施; S: dāna); 2. Ái ngữ (愛 語; S: priyavāditā), nghĩa là dùng lời hay, đẹp để chinh phục người; 3. Lợi hạnh (利 行; S: arthacaryā), hành động vị tha; 4. Đồng sự (同 事; S: samānārthatā), cùng chung làm với những người thiện cũng như ác để hướng dẫn họ đến bờ giác. (Theo Từ Điển Phật Học Online)
HT. Thích Đức Thắng nói trong phần mở đầu bài giảng Tứ Nhiếp Pháp: “Bốn phương pháp này khiến cho các hàng đệ tử Thinh Văn thừa và Bồ-tát thừa sinh khởi lên lòng thân ái, để hướng dẫn chúng sanh hữu tình đi vào Đạo một cách dễ dàng và nhẹ nhàng nhất về cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất, đáp ứng và thõa mãn được những nhu cầu tình cảm có được của họ mà dìu dắt. Ở đây, cả hai đều có lợi: một bên hoàn thành hanh nguyện Bồ-tát của mình, một bên xa lánh được tà kiến vô minh để trở về với chánh kiến giải thoát.” (Tứ Nhiếp Pháp, HT. Thích Đức Thắng - Thư Viện Hoa Sen)
CHÁNH PHÁP Số 162, tháng 05.2025
NỘI DUNG SỐ NÀY:
· THƯ TÒA SOẠN, trang 2
· TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 4
· MỪNG NGÀY PHẬT ĐẢN, KỶ NIỆM PHẬT ĐẢN (thơ HT Thích Thắng Hoan), trang 6
· NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA CÁC HỌC GIẢ ANH QUỐC CHO NỀN PHẬT GIÁO ÂU-MỸ, t.t. (HT. Thích Trí Chơn), trang 7
· KHOẢNH KHẮC LÂM TỲ NI (thơ Đồng Thiện), trang 8
· GIÁO DỤC VÔ THƯỜNG: AI RỒI CŨNG CHẾT (Nguyên Siêu), trang 9
· VỀ THEO ÁNH ĐẠO VÀNG, DƯỚI BÓNG PHẬT ĐÀI (thơ Tôn Nữ Mỹ Hạnh), trang 11
· THÔNG ĐIỆP PHẬT ĐẢN (Sa-môn Thích Tín Nghĩa), trang 12
· ĐỜI SỐNG VÀ TẤM GƯƠNG ĐỨC PHẬT (Đạo Sinh), trang 13
· PHẬT VỀ (thơ Mặc Phương Tử), trang 16
· PHẬT LỊCH VÀ PHẬT ĐẢN (Trần Việt Long), trang 17
· KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN (thơ Trúc Nguyên Thích Chúc Hiền), trang 18
· THÔNG BÁO AN CƯ KIẾT HẠ VÀ ĐẠI HỘI THƯỜNG NIÊN 2025 (TK Thích Nguyên Siêu), trang 19
· MÀU Y BỘ PHÁI – LIÊN HỆ ĐẾN NHUỘM TỊNH VÀ ĐIỂM TỊNH (Bhikku Cittacakkhu) trang 20
· THÔNG BÁO SỐ 2: KHÓA TU HỌC PHẬT PHÁP BẮC MỸ LẦN 12 (HT. Thích Nguyên Siêu), trang 24
· QUÁN “NGŨ THỦ UẨN” TRONG KINH TỨ NIỆM XỨ (Tn Hằng Như), trang 26
· KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN (thơ Minh Đạo), trang 29
· NGƯỜI TỰ THẮNG (Nhóm Áo Lam), trang 30
· THƯ CUNG THỈNH VÀ THƯ MỜI LỄ HIỆP KỴ LỊCH ĐẠI TỔ SƯ – NGÀY VỀ NGUỒN LẦN 14 (HT. Thích Thông Hải), trang 31
· TÂM THƯ KÊU GỌI ỦNG HỘ NGƯỜI DÂN MYANMAR & THÁI LAN SAU ĐỘNG ĐẤT (HT. Thích Nguyên Siêu), trang 33
· TỨ CÚ LỤC BÁT “LẮNG NGHE” (thơ Vĩnh Hữu Tâm Không), trang 35
· NĂM MƯƠI NĂM PHÁT TRIỂN PGVN TẠI CALIFORNIA, t.t. (Thích Từ Lực và TH Huỳnh Kim Quang), trang 39
· QUỶ TRONG NHÀ CŨ (thơ TM Ngô Tằng Giao), trang 43
· VÔ THƯỜNG, THIÊN NHIÊN VÀ TÔI (thơ Trần Quý Trung), trang 47
· TRUYỆN CỰC NGẮN (Steven N), trang 48
· SEN NỞ DƯỚI CHÂN NGƯỜI (thơ Nguyễn An Bình), trang 49
· ĐẾN ĐI GIỮA ĐẤT TRỜI (Tiểu Lục Thần Phong), trang 50
· ĐẤT TRỜI VÀNG SẮC SÁNG (thơ Thanh Nguyễn), trang 53
· ĐỌC TIỂU LỤC THẦN PHONG – NGÒI BÚT HOÀI CẢM VÀ HIỆN THỰC (Uyên Nguyên), trang 54
· TIẾNG VE THỜI TRẺ CON (thơ Trần Hoàng Vy), trang 55
· VẤN ĐÁP ẨM THỰC (Bs. Nguyễn Ý Đức), trang 56
· HÀNH HƯƠNG CHIÊM BÁI PHẬT TÍCH ẤN ĐỘ VÀ NEPAL – THAM DỰ KHÓA TU HỌC PHẬT PHÁP BẮC MỸ 12 (Thích Hạnh Tuệ), trang 58
· HÒA THƯỢNG VÀ CHÚ TIỂU (Hàn Long Ẩn dịch), trang 60
· CỞI TRÓI tập 2 – chương 15, t.t. (truyện dài Vĩnh Hảo), tr. 61
· ĐÓA HOA THIÊNG, NGHÌN NĂM SAU TRƯỚC, THỞ... (thơ Tịnh Bình), trang 65
· THE STORY OF THERA SARIPUTTA (Daw Tin), trang 66
· BỒ TÁT THỊ HIỆN, THIỀN HÀNH (thơ Diệu Viên), trang 67
· CÁI ĐUÔI CHÓ XOẮN RUỘT GÀ (Truyện cổ Phật giáo), trang 68
https://chanhphap.us/CHANH%20PHAP%20BO%20MOI/Muc%20luc%202025/CP%20so%20162%20(05.25).htm