Nhà thơ, nhà báo Phạm Chu Sa đã tổ chức một buổi ra mắt hai tác phẩm trong vòng thân hữu tại tư gia của họa sĩ Nguyễn Đình Thuần chiều Thứ Sáu 2/5/2025. Tập thơ nhan đề “Tình Không” -- ấn hành cuối đời, gom lại tất cả các bài thơ tình của nhà thơ trong đó có 36 bài thơ đã đăng trước 1975 trên các tuần báo Khởi Hành, Tuổi Ngọc và các tạp chí Văn, Vấn Đề... và nhiều bài thơ tình gần đây. Cuốn thứ nhì là hồi ức “Chuyện Làng Văn” về các mảng đời trước và sau 1975 của 50 văn nghệ sĩ mà tác giả có cơ duyên thân tình.
Phạm Chu Sa sau 1975 đã trải qua nhiều năm lang thang chợ trời, bán sách cũ, bán thuốc Tây hè phố, và rồi từ năm 1987 đã cộng tác với các báo Thanh Niên, Phụ Nữ TPHCM, Tuổi Trẻ, Người Lao Động... và các tạp chí Ngày Nay, Xưa và Nay, Kiến thức Ngày Nay... nên biết nhiều về những thăng trầm của các văn nghệ sĩ Miền Nam.
Thơ của Phạm Chu Sa buồn nhiều hơn là vui. Nơi trang 3 tập “Tình Không,” dưới ký họa của họa sĩ Ưu Đàm Trần Nguyên vẽ chân dung nghiêng của họ Phạm là 2 dòng thơ:
Ngày đi những bước không hồn
Bóng ta đổ xuống nỗi buồn bể dâu...
Ngay cả khi nhà thơ Phạm Chu Sa nghĩ rằng chàng đã nhìn được thấu suốt những trận mưa tình cờ trong tim nàng, thì hiện ra trước mắt chàng cũng là những bến bờ tịch liêu, như trang 25:
Mưa trong em rất tình cờ
Và anh chợt đứng bên bờ tịch liêu.
Trong buổi tiệc nhỏ để mừng sách của Phạm Chu Sa tại nhà họa sĩ Nguyễn Đình Thuần có mặt một số văn nghệ sĩ, như Lê Giang Trần, Trịnh Y Thư, Nguyễn Trung Dân, Thái Hoàng, Đặng Phú Phong, Phan Tấn Hải... Tập thơ “Tình Không” của Phạm Chu Sa có bìa là ảnh điêu khắc “Chân Dung Rồng” của điêu khắc gia Ưu Đàm, nơi mép bìa đầu sách là ký họa chân dung do họa sĩ Trương Đình Uyên vẽ, bìa do Đỗ Duy Ngọc thực hiện.
Nơi phần Thay Lời Bạt là bài Tản Mạn Về Phạm Chu Sa của Du Tử Lê viết từ năm 1973 tại Sài Gòn, với lời chân tình từ một nhà thơ giới thiệu một nhà thơ, trích: “Tôi muốn ví những giòng thơ này của ông như một giòng sông, một giòng sông xanh nhưng dưới đáy lại ẩn sẵn khá nhiều sóng ngầm... Có thể ngay chính y, gã thi sĩ, y cũng chẳng hiểu được như một bài toán ra đáp số về những gì y đã viết.” (Tình Không, trang 112)
Nơi trang bìa sau là bài viết nhan đề Bài Ngắn Phạm Chu Sa của nhà thơ Nguyên Sa viết từ năm 1972 về Phạm Chu Sa:
“Họ Phạm vai khá rộng, người cao, khuôn mặt xương có nhiều nét xanh xao mệt mỏi, nụ cười buồn. Phạm Chu Sa đã tới ba mươi chưa, đã yêu bao nhiêu lần, đau khổ bao nhiêu lần, cô đơn bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng? Thi sĩ sinh vào thời gian nào, mùa thu chăng, làm sao phiêu dạt trên những con phố cũ của núi đồi cao nguyên, đứng làm gì ở chân núi Vũng Tàu lúc chiều nghiêng, tới làm gì những nơi xa xôi tựa như Qui Nhơn, tựa như Đại Lãnh?
Các anh có thể hỏi, có quyền hỏi. Các anh hãy hỏi. Tại sao thi sĩ quan tâm tới hương lá khô, vì có gì đêm nằm gối sách nghe mưa mà chẳng ngủ, trú ngụ nơi đâu mà ban đêm phải uống rượu lúc trở về, bởi sao lúc chàng hái hoa buổi sáng chàng lo ậu tới mai sau, buổi chiều chàng đứng nhìn biến dậy?
...Các anh hãy cất tiếng hỏi thiết tha, hãy nói những lời tình tự, họ Phạm sẽ trả lời. Giọng của chàng thường nhịp nhàng như bài hát. Bài hát có lúc đi chừng tám bước rồi dừng chân nhìn trời nhìn biển trước khi đi thêm tám bước nữa. Có lúc giọng chàng nhảy nhót bằng chân chim nhỏ xíu chuyền từ cành cây năm nhánh này tới cành cây năm nhánh kế bên. Các bạn đừng ngạc nhiên nếu nhiều lần giọng nói của thi sĩ trở thành vũ điệu ở trên mở ra như sáu cánh mây bay, ở dưới vút đi, như tám con ngựa chạy.
Các anh hãy nghe tiếng nói đó. Các anh hãy hỏi hãy nghe và hãy nói cho tôi biết rằng quả thực sự thống khoái khi đọc và nói về một người làm thơ không thể là một nhầm lẫn. Không bao giờ là một nhầm lẫn.” (Tình Không, bìa cuối)
Thơ Phạm Chu Sa có phải đã trở thành hương lá khô, thành tiếng mưa đêm nằm gối sách, có phải là giòng sông ngầm mà chính thi sĩ đã không hiểu nổi những gì mình viết? Các bạn nên tìm đọc thơ Phạm Chu Sa để hiểu vì sau Du Tử Lê và Nguyên Sa viết như thế về những trang thơ đã hiện lên như một vũ điệu của tám con ngựa chạy...
Trong khi đó, cuốn sách hồi ức “Chuyện Làng Văn” dày 372 trang của Phạm Chu Sa viết về những kỷ niệm với 50 văn nghệ sĩ: Vương Hồng Sển - Đông Hồ - Mộng Tuyết - Nguyễn Vỹ - Võ Hồng - Phạm Duy - Bùi Giáng - Sơn Nam - Mai Thảo - Minh Quân - Nguyên Sa - Trần Phong Giao - Hoàng Hải Thủy - Duyên Anh - Thanh Tâm Tuyền - Cung Tích Biền - Lâm Triết - Kim Tuấn - Hạc Thành Hoa – Trần Tuấn Kiệt – Nguyễn Xuân Hoàng - Huỳnh Phan Anh - Trương Đạm Thủy – Rừng/Kinh Dương Vương - Du Tử Lê - Vũ Hữu Định - Phạm Văn Hạng - Huy Tưởng - Đỗ Hồng Ngọc - Phan Nhật Nam - Chóe - Lê Cung Bắc - Phuơng Tấn – Từ Kế Tường - Lê Vĩnh Ngọc - Đinh Tiên Luyện – Hoàng Ngọc Tuấn - Hà Thúc Sinh - Nguyễn Tôn Nhan - Khánh Trường - Đoàn Thạch Biên - Nguyễn Lệ Uyên – Nguyễn Đình Thuần - Trần Dzạ Lữ - Đoàn Kế Tường/Đoàn Thạch Hãn - Phạm Thanh Chương - Phan Bá Chức - Phù Hư - Nguyễn Tất Nhiên - Huỳnh Như Phương.
Phạm Chu Sa viết trong Lời Ngỏ, giải thích, trích như sau: “Đây là hồi ức về những chuyện bên lề văn chương, chuyện đời thường của một số văn nghệ sĩ tên tuổi ở miền Nam trước 1975 mà người viết quen biết. Sau ngày 30 tháng Tư 1975, nhiều người ra đi định cư ở nước ngoài vẫn tiếp tục sinh hoạt văn học nghệ thuật, báo chí. Còn những người ở lại gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, chỉ tìm cách tồn tại...” (Chuyện Làng Văn, trang v)
Chuyện đời thường, vâng, có nhiều mẩu chuyện đầy đau thương. Phạm Chu Sa viết Lời Ngỏ này vào tháng 2/2025, giải thích thêm: “Nhiều năm trước, tôi đã hứa với ba người bạn vong niên thân thiết ở ba lĩnh vực văn học nghệ thuật: Dịch giả Huỳnh Phan Anh, Họa sĩ Rừng và Thi sĩ Du Tử Lê - là sẽ viết lại những chuyện đã nghe, thấy, biết về một số văn nghệ sĩ nổi tiếng miền Nam trước 1975. Nhưng rồi Du Tử Lê đã mất năm 2019; Huỳnh Phan Anh mất năm 2020. Và Rừng vừa mất năm 2022 mà tôi vẫn chưa viết xong tập hồi ức! Qua lời ngỏ này, tôi xin tạ lỗi cùng hương linh các anh!
Người viết chỉ ghi lại những gì mình nghe, thấy, biết về phong cách sống và viết cùng những chuyện bên lề của các văn nghệ sĩ tên tuổi quen biết, theo cách "biết sao viết vậy, nhớ gì viết nấy". Mặc dù đây chỉ là những chuyện bên lề văn chương nhưng là người thật, việc thật. Người viết hoàn toàn chịu trách nhiệm về những điều viết trong tập hồi ức này.”
Có những chuyện mà người ngoài giới văn nghệ hiếm khi nghe tới. Như trường hợp về cụ Vương Hồng Sển (1902-1996), Phạm Chu Sa ghi lại nơi trang 3: “Một lần tôi đến thăm, cụ Vương buồn bã bảo cuốn hồi ký "Hơn nửa đời hư" nhiều đoạn đã bị người biên tập cắt xén bỏ đi hoặc tự ý sửa mà không hề tham khảo ý kiến cụ. Ví dụ đoạn cụ viết về Nguyễn Văn Sâm đã bị cắt bỏ.”
Than ôi, chúng ta sẽ không bao giờ biết tại sao đoạn của Vương viết về nhà văn, học giả Nguyễn Văn Sâm bị nhà nước cắt bỏ. Cụ Vương viết gì, và đụng chạm gì mà bị cắt bỏ?
Còn trường hợp nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998), một tâm hồn thơ mộng cực kỳ, nhưng chỉ sợ một câu thần chú duy nhất. Phạm Chu Sa kể về Bùi Giáng: “Khoảng giữa năm 1976, thấy ông mang đủ thứ trên người, đứng giữa đường trước chợ Trương Minh Giảng (sau đổi là chợ Nguyễn Văn Trỗi) múa chân múa tay, sợ ông lại bị công an hay thanh niên cờ đỏ tới tóm, tôi chạy đến nói để tôi chở ông đi, nhưng ông phớt lờ như không nghe không thấy tôi. Tôi bèn kề tai ông nói nhỏ một câu "thần chú"! (Đây là kế mà Huệ Nhật đã bày tôi. Thật ra đó chỉ là câu "chị Kim Cương đang chờ anh"). Bấy giờ ông mới chịu cho tôi chở ông đi.” (CLV, trang 39-40)
Nơi một mây trời thơ mộng khác, Phạm Chu Sa viết về nhà thơ, nhà văn, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (sinh 1942): “Và kể từ sau Nghĩ từ trái tim những tập tản văn Y học, tùỳ bút Thiền, bút ký Thơ, ký sự nhân vật của Đỗ Hồng Ngọc với văn phong thanh thoát, đầy chất thơ, nhẹ nhàng như gió thoảng liên tiếp được ấn hành. Rồi tái bản. Tái bản. Và ông bác sĩ trở thành nhà văn bestseller, các công ty sách tranh nhau xin xuất bản sách Đỗ Hồng Ngọc. Xin mượn ý câu anh viết về bác sĩ - họa sĩ Dương Cẩm Chương khi anh đến mừng đại thọ 100 tuổi của cụ: Tôi nghĩ sau này người ta có thể quên một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhưng người ta sẽ không quên Đỗ Hồng Ngọc thi sĩ.” (CLV, trang 217)
Có những tài năng dị thường, như trường hợp Hoàng Hải Thủy (1933-2020) là người giỏi ngoại ngữ, viết nhanh, dịch thần tốc. Phạm Chu Sa kể rằng Hoàng Hải Thủy ban đầu nổi tiếng về viết phóng sự, về sau cũng nổi tiếng về dịch phóng tác các tiểu thuyết kinh điển quốc tế. Ông nhìn nguyên tác tiếng Pháp và gõ chữ thẳng bản dịch tiếng Việt trên máy đánh chữ, thỉnh thoảng ngó qua bản tiếng Anh để tham khảo. Nhiều năm sau, Hoàng Hải Thủy tự học chữ Hán để dịch truyện Quỳnh Giao.
Nhà văn Phan Nhật Nam (sinh 1943) được Phạm Chu Sa gọi là “kẻ hào kiệt” với một cuộc đời đứng thẳng như cây thông. Nơi trang 219, Phạm Chu Sa kể về Phan Nhật Nam: “Mấy năm trước, nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam gửi thư mời nhà văn Phan Nhật Nam về Việt Nam tham gia Hội thảo "Hòa hợp hòa giải trong văn học" - đại ý như vậy. Phan Nhật Nam là nhà văn chống cộng nổi tiếng. Trong thư mời, Hữu Thỉnh ghi rõ mọi chi phí, từ vé máy bay đi về giữa Hoa Kỳ - Việt Nam và đi lại, ăn ở tại Việt Nam đều do Hội Nhà văn lo hết. Phan Nhật Nam thẳng thừng từ chối.
Trong thư trả lời, anh tự nhận chỉ là "Người lính viết văn". Phan Nhật Nam viết đại ý: Nếu muốn hòa hợp hòa giải thì trước hết hãy hòa giải với các nhà văn nhà thơ trong nước bị áp bức trước kia như nhóm Nhân Văn - Giai phẩm hay lớp nhà văn ở miền Bắc sau này bị kết tội chống đảng, đến giờ vẫn khốn đốn...”
Nhiều mẩu chuyện nói lên cá tính của Phan Nhật Nam, trong đó có những chuyện nghe như tiểu thuyết mà rất là đời thực. Phạm Chu Sa kể về Phan Nhật Nam nơi trang 225: “Trước ngày anh bay đi Mỹ mấy hôm, khi chạy từ Sài Gòn trở lại Lái Thiêu, đến cầu Bình Lợi, anh thấy một thiếu phụ ôm con nhỏ đang tính nhảy xuống sông, anh vội vàng quẳng xe máy, chạy tới chụp kịp cứu sống hai mẹ con. Người phụ nữ nói chị buồn chuyện gia đình và bế tắc kinh tế nên nghĩ quẩn. Anh khuyên bảo, an ủi và giúp đỡ chị chút đỉnh. Sau đó anh đưa hai mẹ con lên Lái Thiêu, tặng chị căn nhà lá và tất cả mọi thứ trong nhà. Vài ngày sau anh đi Mỹ.”
Có những chuyện rất lạ, ít thấy. Như trường hợp nhà thơ, họa sĩ, học giả Nguyễn Tôn Nhan (1948-2011). Phạm Chu Sa kể về nhà thơ họ Nguyễn nơi trang 285: “Bạn bè ít người biết Nguyên Tôn Nhan có cả tên thánh Công giáo là Giu-Se và Pháp danh Phật giáo là Quảng Đạt. Bởi Nhan sinh ra trong gia đình Công giáo, được rửa tội từ nhỏ. Sau này Nhan chơi với nhiều bạn bè Phật tử, chung nhóm "Thơ Thiền" với Phạm Thiên Thư, Đặng Tấn Tới... Thơ của Nguyễn Tôn Nhan sáng tác trong giai đoạn này đầy ắp thiền tính - gọi là Thơ Thiền. Có lẽ Nhan đã quy y Phật giáo từ trước đó. Sau khi Nhan mất, hỏa táng xong, tro cốt Nhan được đưa vào chùa Già Lam một hôm, sau đó bà cụ thân sinh của Nhan mang lọ tro cốt về nhà thờ!”
Không chỉ hy hữu như thế, Nguyễn Tôn Nhan còn là người sáng lập ra kiểu thơ Lục bát ba câu. Phạm Chu Sa ghi rằng sau khi Nhan mất hơn một năm, gia đình mới cho ấn hành tập thơ Lục bát ba câu (Nhà xuất bản Văn hóa Văn nghệ TPHCM - 2012).
Chuyện Làng Văn nơi trang 289 ghi lại:
“Bài mở đầu tập thơ: "Một là vượt cửa tử sinh / Hai là trụ được một mình ở đây / Ba là không vơi không đầy."
Một bài giữa tập: "Thì ra anh có phép tà/ Vừa xưng Phật Tổ vừa ca quỷ thần / Hay là cố ý lần khân?"”
Trường hợp nhà văn Mai Thảo (1927 - 1998) được Phạm Chu Sa kể lại nơi trang 53 rằng: “Mai Thảo là cây bút viết feuilleton ăn khách, rất được các báo săn đón. Mỗi sáng cà phê, ăn sáng xong, "nhà văn rong chơi" tay cầm gói thuốc Salem lững thững leo lên chiếc xích lô quen đợi sẵn, đi một vòng mấy tòa soạn. Đến tòa soạn nào, Mai Thảo thường đi thẳng lên phòng sắp chữ, kêu anh sếp ty-pô hỏi kỳ trước viết tới đâu rồi, để ông viết tiếp. Nhà văn thời thượng vớ một tờ giấy in thử một mặt, lật mặt trắng phía sau bắt đầu viết. Ông viết chừng mươi dòng, anh sếp ty-pô xin xé đoạn đó đưa cho một thợ sắp chữ! Rồi nhà văn viết xong đoạn kế, sếp ty-pô lại xin xé tiếp đưa người thợ khác sắp cho kịp!”
Một khoảnh khắc may mắn, hy hữu trong đời nhà văn Mai Thảo được Phạm Chu Sa kể trong Chuyện Làng Văn, trang 58, như sau: “Lê Khắc Cầm có người bạn là nhà văn làm sếp báo Công An kể lại với anh rằng, trong chiến dịch bố ráp bắt văn nghệ sĩ miền Nam tháng Tư năm 1976, một tối khi công an mặc thường phục đem xe đến nhà bắt Mai Tháo - nhưng họ không biết mặt ông. Họ hỏi có phải ông là Mai Thảo không, anh biết là công an đến bắt mình nên nói trớ "Dạ tôi là người giúp việc, ông Mai Thảo mới đi ra ngoài mua thuốc lá, chốc nữa sẽ về ạ. Mời cán bộ ngồi chờ một chút". Mai Thảo pha trà mời họ rồi lẳng lặng thay đồ chuồn ra cửa sau trốn thoát. Một lát sau, dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu - tức đại đức Thích Chơn Pháp vừa cởi áo tu - đến thăm Mai Thảo. Công an tưởng ông Hiệu là Mai Thảo bèn bắt lên xe không nói một lời! Nguyễn Hữu Hiệu bị bắt giam oan hơn 10 tháng, bởi ông là tu sĩ, phụ trách ban tu thư tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh và là dịch giả chuyên dịch truyện Hemmingway và Nikos Kazanzaki, không liên quan gì tới chính trị, đảng phái nào hết!”
Và toàn bộ cuốn sách Chuyện Làng Văn của Phạm Chu Sa đầy khắp những chuyện hệt như định mệnh như thế. Tác giả cho biết những cuốn sách trong tương lai gần sẽ ấn hành là:
. Chuyện Làng Văn II (Hồi ức văn học)
. Ở Sài Gòn Mà Nhớ Sài Gòn (Tản văn)
. Chữ & Nghĩa: Nguyệt Quế & Cỏ Dại (Tạp bút)
Các tác phẩm đã xuất bản của Phạm Chu Sa đang bán ở
Nhà sách Tự Lực:
14318 Brookhurst St.
Garden Grove 92843 USA
Phone: (888) 204-7749
Gửi ý kiến của bạn