Hôm nay,  

Phạm Chu Sa in thơ Tình Không, Hồi ức văn học Chuyện Làng Văn

08/05/202508:00:00(Xem: 939)
PHAM COVER BOOK

Bìa hai tác phẩm của Phạm Chu Sa.

 
Nhà thơ, nhà báo Phạm Chu Sa đã tổ chức một buổi ra mắt hai tác phẩm trong vòng thân hữu tại tư gia của họa sĩ Nguyễn Đình Thuần chiều Thứ Sáu 2/5/2025. Tập thơ nhan đề “Tình Không” -- ấn hành cuối đời, gom lại tất cả các bài thơ tình của nhà thơ trong đó có 36 bài thơ đã đăng trước 1975 trên các tuần báo Khởi Hành, Tuổi Ngọc và các tạp chí Văn, Vấn Đề... và nhiều bài thơ tình gần đây. Cuốn thứ nhì là hồi ức “Chuyện Làng Văn” về các mảng đời trước và sau 1975 của 50 văn nghệ sĩ mà tác giả có cơ duyên thân tình.

Phạm Chu Sa sau 1975 đã trải qua nhiều năm lang thang chợ trời, bán sách cũ, bán thuốc Tây hè phố, và rồi từ năm 1987 đã cộng tác với các báo Thanh Niên, Phụ Nữ TPHCM, Tuổi Trẻ, Người Lao Động... và các tạp chí Ngày Nay, Xưa và Nay, Kiến thức Ngày Nay... nên biết nhiều về những thăng trầm của các văn nghệ sĩ Miền Nam.

Thơ của Phạm Chu Sa buồn nhiều hơn là vui. Nơi trang 3 tập “Tình Không,” dưới ký họa của họa sĩ Ưu Đàm Trần Nguyên vẽ chân dung nghiêng của họ Phạm là 2 dòng thơ:

Ngày đi những bước không hồn
Bóng ta đổ xuống nỗi buồn bể dâu...

Ngay cả khi nhà thơ Phạm Chu Sa nghĩ rằng chàng đã nhìn được thấu suốt những trận mưa tình cờ trong tim nàng, thì hiện ra trước mắt chàng cũng là những bến bờ tịch liêu, như trang 25:

Mưa trong em rất tình cờ
Và anh chợt đứng bên bờ tịch liêu.

Trong buổi tiệc nhỏ để mừng sách của Phạm Chu Sa tại nhà họa sĩ Nguyễn Đình Thuần có mặt một số văn nghệ sĩ, như Lê Giang Trần, Trịnh Y Thư, Nguyễn Trung Dân, Thái Hoàng, Đặng Phú Phong, Phan Tấn Hải... Tập thơ “Tình Không” của Phạm Chu Sa có bìa là ảnh điêu khắc “Chân Dung Rồng” của điêu khắc gia Ưu Đàm, nơi mép bìa đầu sách là ký họa chân dung do họa sĩ Trương Đình Uyên vẽ, bìa do Đỗ Duy Ngọc thực hiện.  

PHAM-CHU-SA

Phạm Chu Sa (thứ tư, từ trái) gặp bằng hữu văn nghệ tại Santa Ana.

Nơi phần Thay Lời Bạt là bài Tản Mạn Về Phạm Chu Sa của Du Tử Lê viết từ năm 1973 tại Sài Gòn, với lời chân tình từ một nhà thơ giới thiệu một nhà thơ, trích: “Tôi muốn ví những giòng thơ này của ông như một giòng sông, một giòng sông xanh nhưng dưới đáy lại ẩn sẵn khá nhiều sóng ngầm... Có thể ngay chính y, gã thi sĩ, y cũng chẳng hiểu được như một bài toán ra đáp số về những gì y đã viết.” (Tình Không, trang 112)
 
Nơi trang bìa sau là bài viết nhan đề Bài Ngắn Phạm Chu Sa của nhà thơ Nguyên Sa viết từ năm 1972 về Phạm Chu Sa:

“Họ Phạm vai khá rộng, người cao, khuôn mặt xương có nhiều nét xanh xao mệt mỏi, nụ cười buồn. Phạm Chu Sa đã tới ba mươi chưa, đã yêu bao nhiêu lần, đau khổ bao nhiêu lần, cô đơn bao nhiêu ngày bao nhiêu tháng? Thi sĩ sinh vào thời gian nào, mùa thu chăng, làm sao phiêu dạt trên những con phố cũ của núi đồi cao nguyên, đứng làm gì ở chân núi Vũng Tàu lúc chiều nghiêng, tới làm gì những nơi xa xôi tựa như Qui Nhơn, tựa như Đại Lãnh?

Các anh có thể hỏi, có quyền hỏi. Các anh hãy hỏi. Tại sao thi sĩ quan tâm tới hương lá khô, vì có gì đêm nằm gối sách nghe mưa mà chẳng ngủ, trú ngụ nơi đâu mà ban đêm phải uống rượu lúc trở về, bởi sao lúc chàng hái hoa buổi sáng chàng lo ậu tới mai sau, buổi chiều chàng đứng nhìn biến dậy?

...Các anh hãy cất tiếng hỏi thiết tha, hãy nói những lời tình tự, họ Phạm sẽ trả lời. Giọng của chàng thường nhịp nhàng như bài hát. Bài hát có lúc đi chừng tám bước rồi dừng chân nhìn trời nhìn biển trước khi đi thêm tám bước nữa. Có lúc giọng chàng nhảy nhót bằng chân chim nhỏ xíu chuyền từ cành cây năm nhánh này tới cành cây năm nhánh kế bên. Các bạn đừng ngạc nhiên nếu nhiều lần giọng nói của thi sĩ trở thành vũ điệu ở trên mở ra như sáu cánh mây bay, ở dưới vút đi, như tám con ngựa chạy.

Các anh hãy nghe tiếng nói đó. Các anh hãy hỏi hãy nghe và hãy nói cho tôi biết rằng quả thực sự thống khoái khi đọc và nói về một người làm thơ không thể là một nhầm lẫn. Không bao giờ là một nhầm lẫn.” (Tình Không, bìa cuối)

Thơ Phạm Chu Sa có phải đã trở thành hương lá khô, thành tiếng mưa đêm nằm gối sách, có phải là giòng sông ngầm mà chính thi sĩ đã không hiểu nổi những gì mình viết? Các bạn nên tìm đọc thơ Phạm Chu Sa để hiểu vì sau Du Tử Lê và Nguyên Sa viết như thế về những trang thơ đã hiện lên như một vũ điệu của tám con ngựa chạy...  

Trong khi đó, cuốn sách hồi ức “Chuyện Làng Văn” dày 372 trang của Phạm Chu Sa viết về những kỷ niệm với 50 văn nghệ sĩ: Vương Hồng Sển - Đông Hồ - Mộng Tuyết - Nguyễn Vỹ - Võ Hồng - Phạm Duy - Bùi Giáng - Sơn Nam - Mai Thảo - Minh Quân - Nguyên Sa - Trần Phong Giao - Hoàng Hải Thủy - Duyên Anh - Thanh Tâm Tuyền - Cung Tích Biền - Lâm Triết - Kim Tuấn - Hạc Thành Hoa – Trần Tuấn Kiệt – Nguyễn Xuân Hoàng - Huỳnh Phan Anh - Trương Đạm Thủy – Rừng/Kinh Dương Vương - Du Tử Lê - Vũ Hữu Định - Phạm Văn Hạng - Huy Tưởng - Đỗ Hồng Ngọc - Phan Nhật Nam - Chóe - Lê Cung Bắc - Phuơng Tấn – Từ Kế Tường - Lê Vĩnh Ngọc - Đinh Tiên Luyện – Hoàng Ngọc Tuấn - Hà Thúc Sinh - Nguyễn Tôn Nhan - Khánh Trường - Đoàn Thạch Biên - Nguyễn Lệ Uyên – Nguyễn Đình Thuần - Trần Dzạ Lữ - Đoàn Kế Tường/Đoàn Thạch Hãn - Phạm Thanh Chương - Phan Bá Chức - Phù Hư - Nguyễn Tất Nhiên - Huỳnh Như Phương.

Phạm Chu Sa viết trong Lời Ngỏ, giải thích, trích như sau: “Đây là hồi ức về những chuyện bên lề văn chương, chuyện đời thường của một số văn nghệ sĩ tên tuổi ở miền Nam trước 1975 mà người viết quen biết. Sau ngày 30 tháng Tư 1975, nhiều người ra đi định cư ở nước ngoài vẫn tiếp tục sinh hoạt văn học nghệ thuật, báo chí. Còn những người ở lại gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống, chỉ tìm cách tồn tại...” (Chuyện Làng Văn, trang v)

Chuyện đời thường, vâng, có nhiều mẩu chuyện đầy đau thương. Phạm Chu Sa viết Lời Ngỏ này vào tháng 2/2025, giải thích thêm: “Nhiều năm trước, tôi đã hứa với ba người bạn vong niên thân thiết ở ba lĩnh vực văn học nghệ thuật: Dịch giả Huỳnh Phan Anh, Họa sĩ Rừng và Thi sĩ Du Tử Lê - là sẽ viết lại những chuyện đã nghe, thấy, biết về một số văn nghệ sĩ nổi tiếng miền Nam trước 1975. Nhưng rồi Du Tử Lê đã mất năm 2019; Huỳnh Phan Anh mất năm 2020. Và Rừng vừa mất năm 2022 mà tôi vẫn chưa viết xong tập hồi ức! Qua lời ngỏ này, tôi xin tạ lỗi cùng hương linh các anh!

Người viết chỉ ghi lại những gì mình nghe, thấy, biết về phong cách sống và viết cùng những chuyện bên lề của các văn nghệ sĩ tên tuổi quen biết, theo cách "biết sao viết vậy, nhớ gì viết nấy". Mặc dù đây chỉ là những chuyện bên lề văn chương nhưng là người thật, việc thật. Người viết hoàn toàn chịu trách nhiệm về những điều viết trong tập hồi ức này.”

Có những chuyện mà người ngoài giới văn nghệ hiếm khi nghe tới. Như trường hợp về cụ Vương Hồng Sển (1902-1996), Phạm Chu Sa ghi lại nơi trang 3: “Một lần tôi đến thăm, cụ Vương buồn bã bảo cuốn hồi ký "Hơn nửa đời hư" nhiều đoạn đã bị người biên tập cắt xén bỏ đi hoặc tự ý sửa mà không hề tham khảo ý kiến cụ. Ví dụ đoạn cụ viết về Nguyễn Văn Sâm đã bị cắt bỏ.”

Than ôi, chúng ta sẽ không bao giờ biết tại sao đoạn của Vương viết về nhà văn, học giả Nguyễn Văn Sâm bị nhà nước cắt bỏ. Cụ Vương viết gì, và đụng chạm gì mà bị cắt bỏ?

Còn trường hợp nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998), một tâm hồn thơ mộng cực kỳ, nhưng chỉ sợ một câu thần chú duy nhất. Phạm Chu Sa kể về Bùi Giáng: “Khoảng giữa năm 1976, thấy ông mang đủ thứ trên người, đứng giữa đường trước chợ Trương Minh Giảng (sau đổi là chợ Nguyễn Văn Trỗi) múa chân múa tay, sợ ông lại bị công an hay thanh niên cờ đỏ tới tóm, tôi chạy đến nói để tôi chở ông đi, nhưng ông phớt lờ như không nghe không thấy tôi. Tôi bèn kề tai ông nói nhỏ một câu "thần chú"! (Đây là kế mà Huệ Nhật đã bày tôi. Thật ra đó chỉ là câu "chị Kim Cương đang chờ anh"). Bấy giờ ông mới chịu cho tôi chở ông đi.” (CLV, trang 39-40)

Nơi một mây trời thơ mộng khác, Phạm Chu Sa viết về nhà thơ, nhà văn, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc (sinh 1942): “Và kể từ sau Nghĩ từ trái tim những tập tản văn Y học, tùỳ bút Thiền, bút ký Thơ, ký sự nhân vật của Đỗ Hồng Ngọc với văn phong thanh thoát, đầy chất thơ, nhẹ nhàng như gió thoảng liên tiếp được ấn hành. Rồi tái bản. Tái bản. Và ông bác sĩ trở thành nhà văn bestseller, các công ty sách tranh nhau xin xuất bản sách Đỗ Hồng Ngọc. Xin mượn ý câu anh viết về bác sĩ - họa sĩ Dương Cẩm Chương khi anh đến mừng đại thọ 100 tuổi của cụ: Tôi nghĩ sau này người ta có thể quên một bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhưng người ta sẽ không quên Đỗ Hồng Ngọc thi sĩ.” (CLV, trang 217)

Có những tài năng dị thường, như trường hợp Hoàng Hải Thủy (1933-2020) là người giỏi ngoại ngữ, viết nhanh, dịch thần tốc. Phạm Chu Sa kể rằng Hoàng Hải Thủy ban đầu nổi tiếng về viết phóng sự, về sau cũng nổi tiếng về dịch phóng tác các tiểu thuyết kinh điển quốc tế. Ông nhìn nguyên tác tiếng Pháp và gõ chữ thẳng bản dịch tiếng Việt trên máy đánh chữ, thỉnh thoảng ngó qua bản tiếng Anh để tham khảo. Nhiều năm sau, Hoàng Hải Thủy tự học chữ Hán để dịch truyện Quỳnh Giao.
 
Nhà văn Phan Nhật Nam (sinh 1943) được Phạm Chu Sa gọi là “kẻ hào  kiệt” với một cuộc đời đứng thẳng như cây thông. Nơi trang 219, Phạm Chu Sa kể về Phan Nhật Nam: “Mấy năm trước, nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam gửi thư mời nhà văn Phan Nhật Nam về Việt Nam tham gia Hội thảo "Hòa hợp hòa giải trong văn học" - đại ý như vậy. Phan Nhật Nam là nhà văn chống cộng nổi tiếng. Trong thư mời, Hữu Thỉnh ghi rõ mọi chi phí, từ vé máy bay đi về giữa Hoa Kỳ - Việt Nam và đi lại, ăn ở tại Việt Nam đều do Hội Nhà văn lo hết. Phan Nhật Nam thẳng thừng từ chối.

Trong thư trả lời, anh tự nhận chỉ là "Người lính viết văn". Phan Nhật Nam viết đại ý: Nếu muốn hòa hợp hòa giải thì trước hết hãy hòa giải với các nhà văn nhà thơ trong nước bị áp bức trước kia như nhóm Nhân Văn - Giai phẩm hay lớp nhà văn ở miền Bắc sau này bị kết tội chống đảng, đến giờ vẫn khốn đốn...”

Nhiều mẩu chuyện nói lên cá tính của Phan Nhật Nam, trong đó có những chuyện nghe như tiểu thuyết mà rất là đời thực. Phạm Chu Sa kể về Phan Nhật Nam nơi trang 225: “Trước ngày anh bay đi Mỹ mấy hôm, khi chạy từ Sài Gòn trở lại Lái Thiêu, đến cầu Bình Lợi, anh thấy một thiếu phụ ôm con nhỏ đang tính nhảy xuống sông, anh vội vàng quẳng xe máy, chạy tới chụp kịp cứu sống hai mẹ con. Người phụ nữ nói chị buồn chuyện gia đình và bế tắc kinh tế nên nghĩ quẩn. Anh khuyên bảo, an ủi và giúp đỡ chị chút đỉnh. Sau đó anh đưa hai mẹ con lên Lái Thiêu, tặng chị căn nhà lá và tất cả mọi thứ trong nhà. Vài ngày sau anh đi Mỹ.”

Có những chuyện rất lạ, ít thấy. Như trường hợp nhà thơ, họa sĩ, học giả Nguyễn Tôn Nhan (1948-2011). Phạm Chu Sa kể về nhà thơ họ Nguyễn nơi trang 285: “Bạn bè ít người biết Nguyên Tôn Nhan có cả tên thánh Công giáo là Giu-Se và Pháp danh Phật giáo là Quảng Đạt. Bởi Nhan sinh ra trong gia đình Công giáo, được rửa tội từ nhỏ. Sau này Nhan chơi với nhiều bạn bè Phật tử, chung nhóm "Thơ Thiền" với Phạm Thiên Thư, Đặng Tấn Tới... Thơ của Nguyễn Tôn Nhan sáng tác trong giai đoạn này đầy ắp thiền tính - gọi là Thơ Thiền. Có lẽ Nhan đã quy y Phật giáo từ trước đó. Sau khi Nhan mất, hỏa táng xong, tro cốt Nhan được đưa vào chùa Già Lam một hôm, sau đó bà cụ thân sinh của Nhan mang lọ tro cốt về nhà thờ!”

Không chỉ hy hữu như thế, Nguyễn Tôn Nhan còn là người sáng lập ra kiểu thơ Lục bát ba câu. Phạm Chu Sa ghi rằng sau khi Nhan mất hơn một năm, gia đình mới cho ấn hành tập thơ Lục bát ba câu (Nhà xuất bản Văn hóa Văn nghệ TPHCM - 2012).

Chuyện Làng Văn nơi trang 289 ghi lại:

Bài mở đầu tập thơ: "Một là vượt cửa tử sinh / Hai là trụ được một mình ở đây / Ba là không vơi không đầy."
Một bài giữa tập: "Thì ra anh có phép tà/ Vừa xưng Phật Tổ vừa ca quỷ thần / Hay là cố ý lần khân?"”
Trường hợp nhà văn Mai Thảo (1927 - 1998) được Phạm Chu Sa kể lại nơi trang 53 rằng: “Mai Thảo là cây bút viết feuilleton ăn khách, rất được các báo săn đón. Mỗi sáng cà phê, ăn sáng xong, "nhà văn rong chơi" tay cầm gói thuốc Salem lững thững leo lên chiếc xích lô quen đợi sẵn, đi một vòng mấy tòa soạn. Đến tòa soạn nào, Mai Thảo thường đi thẳng lên phòng sắp chữ, kêu anh sếp ty-pô hỏi kỳ trước viết tới đâu rồi, để ông viết tiếp. Nhà văn thời thượng vớ một tờ giấy in thử một mặt, lật mặt trắng phía sau bắt đầu viết. Ông viết chừng mươi dòng, anh sếp ty-pô xin xé đoạn đó đưa cho một thợ sắp chữ! Rồi nhà văn viết xong đoạn kế, sếp ty-pô lại xin xé tiếp đưa người thợ khác sắp cho kịp!”

Một khoảnh khắc may mắn, hy hữu trong đời nhà văn Mai Thảo được Phạm Chu Sa kể trong Chuyện Làng Văn, trang 58, như sau: “Lê Khắc Cầm có người bạn là nhà văn làm sếp báo Công An kể lại với anh rằng, trong chiến dịch bố ráp bắt văn nghệ sĩ miền Nam tháng Tư năm 1976, một tối khi công an mặc thường phục đem xe đến nhà bắt Mai Tháo - nhưng họ không biết mặt ông. Họ hỏi có phải ông là Mai Thảo không, anh biết là công an đến bắt mình nên nói trớ "Dạ tôi là người giúp việc, ông Mai Thảo mới đi ra ngoài mua thuốc lá, chốc nữa sẽ về ạ. Mời cán bộ ngồi chờ một chút". Mai Thảo pha trà mời họ rồi lẳng lặng thay đồ chuồn ra cửa sau trốn thoát. Một lát sau, dịch giả Nguyễn Hữu Hiệu - tức đại đức Thích Chơn Pháp vừa cởi áo tu - đến thăm Mai Thảo. Công an tưởng ông Hiệu là Mai Thảo bèn bắt lên xe không nói một lời! Nguyễn Hữu Hiệu bị bắt giam oan hơn 10 tháng, bởi ông là tu sĩ, phụ trách ban tu thư tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh và là dịch giả chuyên dịch truyện Hemmingway và Nikos Kazanzaki, không liên quan gì tới chính trị, đảng phái nào hết!”

Và toàn bộ cuốn sách Chuyện Làng Văn của Phạm Chu Sa đầy khắp những chuyện hệt như định mệnh như thế. Tác giả cho biết những cuốn sách trong tương lai gần sẽ ấn hành là:

. Chuyện Làng Văn II (Hồi ức văn học)
. Ở Sài Gòn Mà Nhớ Sài Gòn (Tản văn)
. Chữ & Nghĩa: Nguyệt Quế & Cỏ Dại (Tạp bút)

Các tác phẩm đã xuất bản của Phạm Chu Sa đang bán ở
Nhà sách Tự Lực:
14318 Brookhurst St.
Garden Grove 92843 USA
Phone: (888) 204-7749

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
"Mỗi người đến thế giới này như một kẻ xa lạ, không phải vì họ xa lạ mà bởi vì họ được nhìn bởi người khác, trong đó có các nhà văn, như kẻ xa lạ. Bi kịch của con người là ở chỗ họ quá khác nhau, ở các học thuyết và các niềm tin, ở các quyết định và hành động, nhưng sâu thẳm họ giống nhau khi rắp tâm đi tìm sự thật cuối cùng. Không có công lý và sự thật phổ biến cho mọi trường hợp, và con người luôn luôn chọn đứng về một phía, và đó là bi kịch và hài kịch của họ. Những xung đột giữa người và người, giữa các quốc gia, các chủ nghĩa, đỉnh cao là chiến tranh, ở mức cá nhân là hận thù, những xung đột ấy chỉ có hy vọng hóa giải khi con người nhìn thấy sự thật phía sau câu chuyện lịch sử, những động cơ tâm hồn bên dưới sự thật. Sự hiểu biết ấy, và sự vui thú sinh ra từ hiểu biết ấy, làm nên sức hấp dẫn của tiểu thuyết.
WESTMINSTER (PTH/VB) – Buổi ra mắt sách “Những Người Ở Lại” của tác giả LU Thuy hôm Chủ Nhật 27/4/2025 tại Westminster cũng là dịp để tác giả tâm sự về lý do vì sao viết sách này, cũng là dịp để nghe anh Võ Văn Thiệu, một sinh viên du học tại Ý từ trước năm 1975, kể về không khí thân cộng của các sinh viên từ Miền Nam VN du học tại Pháp
Cuộc chiến Việt Nam đã khép lại từ nửa thế kỷ trước nhưng những hệ lụy vẫn còn ghi khắc trong đời sống, tâm trí và ký ức của nhiều thế hệ người Việt ở quê hương lẫn hải ngoại. Ký ức đau thương lẫn khát vọng xây dựng tương lai đã trở thành chủ đề trung tâm trong nhiều tác phẩm văn học, tuyển tập truyện ngắn "The Colors of April" do Quan Manh Ha và Cab Tran biên tập là một ví dụ điển hình.
Khi về già, bạn mắc bệnh mất trí nhớ, rồi mất phương hướng, sau đó mất ngôn ngữ. Nếu bạn sống thật lâu, như một ngọn núi, các chuẩn tắc đạo lý do con người đặt ra sẽ mất sau cùng. Và theo thứ tự như vậy. Trước cửa một tiệm cà phê gần khu vực tưởng niệm sự kiện 911, gần nền của tòa tháp đôi đổ sập, xuôi về phía hiệu sách cũ Strand ở Broadway, nơi tôi mua được một tập thơ của Gerald Stern, tôi gặp anh Siu Kpa, người Gia rai sáu mươi tuổi, và vợ anh. Anak Gia rai, con của Gia rai. Hay Giơ rai, Jarai, Jrarai, Chơ rai đều được, cả hai nói tiếng Việt, nhưng anh nói giỏi hơn. Thật ra chị là người Ba na, nghe phát âm như Bơ na, hay Bờ na, hay Bà nà, cũng là Ba na dưới núi, Ba na trên núi, Bơ Nâm, Bơ Môn. Cả hai đều mất trí nhớ nhưng theo hướng ngược chiều nhau.
Nhà văn Phạm Quốc Bảo trong tuần qua vừa ấn hành tuyển tập Cuốn Lên Bức Mành. Một tác phẩm ghi lại những suy nghĩ của một người đang giữa lứa tuổi 80s từ hải ngoại về những gì còn lưu giữ sau một đời làm báo và viết truyện. Từng trang chữ của ông là cô đọng những cảm xúc của một người không tự cho mình sống một ngày nào mà không nghĩ tới quê nhà. Tuyển tập nhiều bài viết Cuốn Lên Bức Mành gồm ba phần: Hồi ức, Tản mạn, Thơ. Nơi đây, chúng ta gọi ấn phẩm này là cuốn sách sau 50 năm, vì Phần 2 còn được tác giả ghi là: Nửa Thế Kỷ Ngoái Lại. Thực tế, chiều dài của sách là hơn một thế kỷ rưỡi, vì có kể về ông ngoại tác giả là cụ Bùi Văn Giảng (1871-1934). Với chiều dài thời gian như thế, và với cảm xúc của thời điểm 50 năm, tác phẩm của Phạm Quốc Bảo có những trầm lắng rất là tịch mịch của lịch sử. Nơi đây chúng ta sẽ giới thiệu một số điểm trong tuyển tập.
Khi đọc được khoảng một phần ba quyển hồi ký “Việt Nam của con – Việt Nam của cha”, trong tôi thôi thúc mãnh liệt một suy nghĩ: đã đến lúc tôi cũng nên ngồi xuống để viết một quyển sách của chính mình trước khi quá trễ, hay nói đúng hơn là trước khi đầu óc tôi bắt đầu quên lãng nhiều cột mốc, nhiều câu chuyện, đặc biệt là nhiều cảm xúc đã từng có trong tôi, từng xảy ra trong đời tôi, kể từ lúc đặt chân đến đất nước này, nơi vừa gần gũi lại vừa lạ lẫm với tôi cho đến tận bây giờ.
“Việt Nam Của Con, Việt Nam Của Cha” (nguyên bản ‘My Vietnam, Your Vietnam’) không chỉ là tự truyện của cha và con, kể lại hành trình đi tìm nguồn cội của tác giả, Christina Võ, mà còn là cách cô “hòa giải” – chữa lành vết thương giữa hai thế hệ – giữa cô và người cha, ông Nghĩa Võ, một bác sĩ quân y VNCH, cũng là đồng tác giả.
Không rõ do một cơ duyên nào mà ba người ấy – ba nhà thơ nữ, ba tâm hồn, ba định mệnh, ba trải nghiệm, ba cuộc đời, ba ngọn suối nguồn thơ ca lại rủ nhau về hợp lưu tụ hội trong một tuyển thơ đặc sắc, hiếm có...
Tác giả của cuốn sách này, Bác sĩ Ngô Thế Vinh, là một trong những nhân vật hàng đầu trong đời sống văn học ở Nam Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, và đã từng quen biết với tất cả những nhân vật mà ông phác thảo. Bác sĩ Vinh là bác sĩ chuyên ngành nội khoa tại một Trung Tâm Y Khoa Long Beach, Nam California. Ông cũng là một tác giả không biết mỏi mệt, với các tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, các sách bình luận văn hóa (như cuốn này) và các bài tường trình khảo sát. Đặc biệt, ông đã đích thân thực hiện chuyến đi điền dã theo suốt chiều dài 4.800 km của sông Mekong và đã viết hai cuốn sách nói về sự tồn vong của con sông này, một con sông lớn của thế giới và là mạch sống của hơn 70 triệu người sống dọc theo hai bờ con sông và nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long.
Người Hát là tập thơ đầu tiên của Bùi Mai Hạnh. Một tập thơ đặc sắc. Một trong những chủ đề là những quan tâm xã hội được nhìn dưới khía cạnh trữ tình, sự bình đẳng, tự do, và các mối quan hệ giữa người và người. Thơ chị không trừu tượng, không có những ý tưởng tổng quát, mà chứa đầy sự kiện, các chi tiết. Có một truyền thống văn hóa và tinh thần ở đó, trong những bài thơ có tính hiện đại và đương đại của chị. Thơ Bùi Mai Hạnh trực tiếp mô tả, trong khi hàm chứa những yếu tố triết lý lặng lẽ. Mối quan hệ của chị với người khác, trong tình bạn, trong tình yêu, là những mối quan hệ sâu đậm, mạnh, khó khăn. Tất cả các đề tài đều có thể có mặt: sự chống trả quyết liệt đối với số phận, sự đề kháng xã hội, sự sợ hãi và hèn yếu, tất cả có mặt trong thơ Hạnh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.