Hôm nay,  

Nguy Cơ Sụp Đổ Mạng Lưới Truyền Thông Phục Vụ Công Chúng Hoa Kỳ

09/05/202500:00:00(Xem: 440)

truyen thong
Một gia đình nông dân đang chăm chú lắng nghe chương trình phát thanh tại nhà – Hoa Kỳ, ngày 14 tháng 8 năm 1926. (Nguồn: Ảnh tư liệu của NARA, qua Wikimedia Commons)

Chiến dịch cắt giảm chi tiêu của chính quyền Trump, vốn đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực từ nghệ thuật đến nghiên cứu ung thư, nay còn bao gồm cả nỗ lực thực hiện mục tiêu lâu dài của Đảng Cộng Hòa: chấm dứt hoàn toàn nguồn tài trợ liên bang cho hai hệ thống truyền thông phục vụ công chúng lớn nhất nước Mỹ: NPR và PBS.
 
Hiện có khoảng 1,500 đài phát thanh và truyền hình độc lập liên kết với NPR và PBS trên khắp Hoa Kỳ, phát sóng các chương trình nổi tiếng như Morning Edition, LAistMarketplacePBS NewsHourFrontline và Nova... Theo dữ liệu từ các hệ thống này, có khoảng 43 triệu người nghe đài công cộng hàng tuần, và mỗi năm có hơn 130 triệu lượt xem đài PBS.
 
Những đài này không chỉ loan tin địa phương, mà còn là nơi công chúng tìm đến khi cần biết các thông báo kịp thời trong tình huống khẩn cấp. Nhưng hơn thế nữa, đó còn là cánh cửa mở ra thế giới văn hóa và nghệ thuật từ những vùng miền trên khắp Hoa Kỳ đến quốc tế. Giữa lúc truyền thông thương mại ngày càng lùi bước khỏi mảng tin tức địa phương, thì người dân, vốn tin tưởng vào đài công cộng để kết nối với cộng đồng của mình, giờ đây càng phụ thuộc vào nguồn thông tin này hơn bao giờ hết.
 
Bị cắt giảm ngân sách, rồi điều tra đủ kiểu
 
Truyền thông công cộng không chỉ đối mặt với áp lực tài chánh mà còn đang bị “bới lông tìm vết” bởi Ủy Ban Truyền Thông Liên Bang (FCC), cơ quan chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của các phương tiện truyền thông.
 
Brendan Carr, người được Trump bổ nhiệm làm lãnh đạo FCC, chính là một trong những người tham gia soạn thảo Project 2025 – bản kế hoạch cải tổ toàn diện theo hướng bảo thủ mà Trump từng giả bộ tránh né trong chiến dịch tranh cử 2024, nhưng giờ thì hoàn toàn ủng hộ.
 
Theo kế hoạch trong Project 2025, FCC đang điều tra phương thức tài trợ “underwriting” của NPR. Đây là phương thức mà các nhà tài trợ được nhắc tên công khai trên sóng phát thanh hoặc truyền hình để ghi nhận sự đóng góp của họ, nhưng không đi kèm bất kỳ lời mời gọi nào khiến khán giả phải có quan điểm, lựa chọn hay quyết định mua sản phẩm.
 
FCC đang điều tra những nội dung tài trợ này trên NPR và PBS có đang vi phạm quy định cấm quảng cáo thương mại hay không.
 
Các giám đốc điều hành của cả hai hệ thống truyền thông công cộng đã lên tiếng bác bỏ cáo buộc, khẳng định rằng phương thức tài trợ của họ hoàn toàn hợp pháp.
 
Trong khi đó, các DB Cộng Hòa tại Hạ Viện bắt đầu tổ chức các buổi điều trần với lý do truyền thông công cộng có dấu hiệu “thiên vị phe cấp tiến.” Họ đặc biệt chú ý đến Corporation for Public Broadcasting, một tổ chức vô vụ lợi kiểm soát và điều phối ngân sách liên bang phân bổ cho NPR và PBS.
 
Đồng thời, Trump cũng đã ký sắc lệnh hành pháp ngày 1 tháng 5, yêu cầu CPB “ngừng các khoản tài trợ trực tiếp hiện có, ở mức tối đa mà luật pháp cho phép” và “không tiếp tục cấp ngân sách trong tương lai.” Theo sắc lệnh, ông cáo buộc NPR và PBS đã đưa tin sai lạc, thể hiện thành kiến chính trị, gây ảnh hưởng tới người dân.
 
Là một người nghiên cứu lịch sử truyền thông, Josh Shepperd (Giảng sư về nghiên cứu truyền thông từ Đại học Colorado Boulder) từng viết sách về sự ra đời của truyền thông công cộng ở Mỹ, một hành trình gắn liền với lý tưởng dân chủ. NPR và PBS không đơn giản chỉ là hai mạng lưới truyền thông, mà là nền tảng bảo đảm quyền được biết thông tin, nắm tin tức của mọi người dân, bất kể họ là ai hay sống ở đâu.
 
Bắt đầu từ giáo dục
 
Khởi đầu từ giáo dục, truyền thông công cộng Hoa Kỳ bắt đầu hình thành vào những năm 1920, khi các trường đại học công lập xây dựng những đài phát thanh nhỏ với mong muốn mang tri thức đến với những cộng đồng nông thôn còn thiếu thốn điều kiện học hành như ở thành phố.
 
Những buổi phát sóng đầu tiên rất giản dị, mộc mạc – là tiếng giảng bài của thầy cô và phát thanh viên về lịch sử, tài chánh, hay những việc đời thường như nấu ăn, may vá, và cả thưởng thức âm nhạc.
 
Một số giáo sư thậm chí đã tự tay xây dựng đài phát thanh, như tại Đại học Wisconsin. Nhiều người thử các hình thức nghệ thuật phát thanh mới, chẳng hạn như biểu diễn kịch trực tiếp trên sóng radio. Vào cuối thập niên 1920, Đại học Bang Ohio là nơi đầu tiên phát sóng những vở kịch Shakespeare trên đài phát thanh.
 
Người dân đón nhận những chương trình ấy với sự thích thú và tò mò, nhưng không phải lúc nào chất lượng chương trình cũng tốt. Nhiều thầy cô, do chưa quen với cách truyền đạt qua sóng radio, đã bị chê vì giọng đọc đều đều, thiếu cuốn hút.
 
Mô hình “mạng lưới xe đạp” và sự ra đời của PBS
Khi chiếc radio dần xuất hiện trong từng mái nhà trên khắp nước Mỹ, người ta cũng bắt đầu để tâm nhiều hơn đến việc làm cho các chương trình phát thanh giáo dục trở nên hấp dẫn và hiệu quả hơn. Tính đến năm 1940, hơn 500 đài phát sóng đã hoạt động đều đặn. Và chỉ năm năm sau đó, khi Thế Chiến II khép lại, gần như mọi gia đình Mỹ (hơn 95%) đều đã có cho mình một chiếc máy thu thanh.
 
Họ chia sẻ chương trình hay nhất cho nhau thông qua mạng lưới xe đạp (bicycle network). Dần dần, các chương trình giáo dục phát triển thành các show nấu ăn, thời sự, phỏng vấn chuyên gia… Các nhà làm chương trình phát thanh và truyền hình giáo dục đã hợp tác qua tổ chức National Association of Educational Broadcasters để chọn ra những chương trình hay nhất, những nội dung chất lượng nhất. Một chương trình hài dành cho thiếu nhi chỉ dài khoảng nửa tiếng nhưng có thể kết hợp dạy toán học, kể chuyện, âm nhạc và các bài học đạo đức – nền móng của chương trình “Sesame Street” sau này.
 
Từ những năm 1950, một hướng đi mới cho truyền thông công cộng đã bắt đầu hình thành. Các nhà làm chương trình ấp ủ niềm tin rằng tri thức phải đến được với tất cả mọi người, dù họ sống ở miền quê hẻo lánh hay những đô thị sầm uất. Họ đặt ra nguyên tắc: mọi thông tin đưa ra phải chính xác đến từng chi tiết, được kiểm tra cẩn thận, thậm chí phải tuân theo các tiêu chuẩn học thuật. Những chương trình được phát sóng không chỉ là để người dân biết thông tin, mà còn là ánh sáng duy nhất ở những nơi mà truyền thông thương mại chưa từng chạm tới.
 
Để lý tưởng ban đầu không bị lạc lối về sau, các đài phát thanh giáo dục đã quyết định tránh xa nguồn tài trợ từ các công ty quảng cáo. Vì thế, họ hoạt động chủ yếu nhờ vào ngân sách từ chính quyền các tiểu bang và địa phương, chứ không phải từ các công ty, xí nghiệp tài trợ.
 
Nhờ vậy, các chính quyền địa phương có thể tận dụng những đài này để đưa ra thông báo công cộng, thông tin khẩn cấp, và thậm chí dành thời lượng phát sóng miễn phí cho các ứng viên chính trị. Các nhà lập pháp cũng đánh giá đây là nền tảng rất tốt để người dân học nghề theo nhu cầu và thời gian rảnh rỗi của riêng mỗi người, không bị gò bó.
 
Chính phủ bắt đầu tham gia
 
Đến cuối thập niên 1950, chính phủ liên bang bắt đầu xây dựng cơ sở hạ tầng phát sóng, từ tháp ăng-ten, máy phát đến nhà xưởng. Năm 1958, Tổng thống Eisenhower ký ban hành một đạo luật tài trợ cho giáo dục truyền thông, vì ông tin rằng, đất nước có dân trí cao thì cũng sẽ vững mạnh về quốc phòng.
 
Năm 1967, Tổng thống Johnson ký Đạo luật Phát thanh Công cộng (Public Broadcasting Act), đảm bảo một nguồn ngân sách thường xuyên và ổn định từ chính phủ dành cho các chương trình phát thanh và truyền hình giáo dục. Quốc Hội cũng đã chuyển hướng từ “giáo dục” sang “công cộng,” với nội dung ngày càng đa dạng, bao gồm cả các chương trình nổi tiếng từ BBC của Anh.
 
PBS chính thức lên sóng vào năm 1970, và một năm sau đó, NPR phát đi bản tin đầu tiên của mình.
 
Để giữ cho NPR và PBS không bị ảnh hưởng bởi các đảng phái chính trị cũng như những nhà tài trợ thương mại, tổ chức Corporation for Public Broadcasting (CPB) ra đời.
 
Ngoài việc phân bổ ngân sách, CPB còn cấp thêm tài trợ giúp bảo trì cơ sở vật chất như máy móc, thiết bị phát sóng và phòng thu… Phần còn lại của ngân sách sẽ được sử dụng để giúp phát triển nội dung hay hơn và nghiên cứu cách phục vụ khán giả tốt hơn, đúng như tinh thần tiên phong của “mạng lưới xe đạp.
 
Thành công rõ ràng
 
CPB đã gặt hái nhiều thành công, với bằng chứng rõ ràng là có đến 99% người dân Mỹ có thể xem hoặc nghe các chương trình truyền thông công cộng qua TV, radio trong xe, máy tính và nhiều thiết bị khác.
 
Trong năm 2025, CPB nhận 535 triệu MK từ ngân sách liên bang – tương đương 1.60 MK tính trên mỗi người dân. 70% khoản đó được đầu tư trực tiếp vào các đài địa phương. Trong khi đó, người dân ở các quốc gia khác phải chi trả nhiều hơn cho dịch vụ tương tự: Đức (142 MK/người/năm), Anh (81 MK/người/năm), và Canada (26 MK/người/năm), theo thống kê năm 2022.
 
Điều đặc biệt ở truyền thông công cộng Mỹ là các đài địa phương trong hệ thống công cộng đều là tổ chức vô vụ lợi. Họ không chỉ tự quản trị mà còn phải tự chi trả để phát sóng các chương trình do NPR và PBS sản xuất. Tương tự như CPB, cả NPR và PBS đều là các tổ chức độc lập, không phải là cơ quan chính phủ. Ngoài ngân sách liên bang, truyền thông công cộng Mỹ còn nhận 1.3 tỷ MK/năm từ đóng góp cá nhân, công ty xí nghiệp và tổ chức. Trong đó, theo số liệu năm 2023, có 170 triệu MK đến từ tài trợ underwriting.
 
Nếu ngân sách liên bang bị cắt hoàn toàn, các đài địa phương sẽ không đủ nguồn lực để bảo trì hệ thống – nào là ăng-ten, nào là máy phát, nền tảng kỹ thuật số – để tiếp tục mang thông tin đến mọi ngóc ngách của nước Mỹ.
 
Không chấp nhận việc chính quyền Trump muốn “đuổi” ba người trong hội đồng quản trị, CPB đã kiện lên tòa án. Họ cho rằng tổ chức của mình là độc lập, không thuộc chính phủ, nên Bạch Ốc không có quyền chỉ đạo ai nên, ai không nên giữ chức vụ. Sắc lệnh hành pháp mà Trump đưa ra cũng đang đứng trước nguy cơ bị vô hiệu hóa bởi tòa. Và cũng như mọi sắc lệnh hành pháp khác, bất kỳ tổng thống nào kế nhiệm cũng có thể xóa bỏ nó dễ dàng.
 
Nếu việc cắt toàn bộ ngân sách liên bang dành cho NPR và PBS thực sự diễn ra, nhóm người chịu ảnh hưởng lớn nhất sẽ là các cộng đồng nông thôn (vốn là những người đầu tiên mà đài phát thanh giáo dục hướng tới). Lý do là bởi ở những khu vực này, các nguồn tin tức thay thế gần như không còn, sau khi báo chí địa phương bị suy giảm nghiêm trọng do các tập đoàn cắt giảm nhân sự.
 
Trong suốt trăm năm qua, truyền thông công cộng đã mở ra một con đường khác với truyền thông thương mại – một con đường không phụ thuộc vào việc làm ra chương trình để lấy lòng các nhà tài trợ như hãng xe, công ty thuốc lá hay công ty, xí nghiệp lớn. Tương lai của họ giờ đây nằm trong tay Quốc Hội, FCC và các tòa án. Chính những cơ quan này sẽ viết nên chương tiếp theo của nền truyền thông công cộng Hoa Kỳ trong thế kỷ 21.
 
Nguyên Hòa biên dịch 
Nguồn: “Trump and many GOP lawmakers want to end all funding for NPR and PBS − unraveling a US public media system that took a century to build” được đăng trên trang TheConversation.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một đứa trẻ chỉ nên có ba con búp bê, năm cây bút chì, giá trị chưa đến $20. Donald Trump có một phi cơ riêng sơn tên của ông ta trên đó. Với tư cách là tổng thống, hiện ông ta có hai chuyên cơ, Không Lực Một và một chiếc nhỏ hơn để phù hợp với những nơi có sân bay nhỏ, chưa kể chiếc trực thăng Marine One. Đó là ba chiếc phi cơ Trump sở hữu. Đó cũng là con số búp bê mà Trump đề nghị một đứa trẻ ở Mỹ nên có.
Mặc dù chỉ mới ba năm trôi qua kể từ khi bà Merkel rời nhiệm sở, nhưng thế giới đã thay đổi quá nhiều đến mức mà chức thủ tướng của bà đã được cảm thấy như nó thuộc về một thời đại khác. Cuốn hồi ký mới của bà cho thấy bà bình tâm với những quyết định đã đưa ra, bao gồm cả những quyết định bị phê phán nghiêm khắc nhất.
“Việc cắt giảm chăm sóc sức khỏe để trả tiền cho các khoản giảm thuế sẽ là sai về mặt đạo đức và tự sát về mặt chính trị.” TNS Josh Hawley (Cộng Hòa, Missouri)
Từ năm 1949, tháng Năm được chọn là Tháng Nhận Thức Về Sức Khỏe Tâm Thần (Mental Health Awareness Month – MHAM) ở Mỹ. Đây là tháng mang ý nghĩa kêu gọi cùng nâng cao nhận thức, giảm bỏ kỳ thị và thúc đẩy bảo vệ sức khỏe tâm thần. Theo phúc trình năm 2024 của tổ chức Mental Health America ở Alexandria, Hoa Kỳ thật sự đang trong cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần. Cứ năm người trưởng thành ở Mỹ thì có trên một người đang sống chung với bệnh tâm thần, và hơn một nửa không được điều trị. Gần 60 triệu người lớn (23.8%) mắc bệnh tâm thần trong năm 2024. Gần 13 triệu người lớn (5.04%) có ý định tự tử.
Ngày 30.04.1975 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử cận đại của Việt Nam. Nhưng năm mươi năm sau nhìn lại, dân tộc Việt oai hùng, như vẫn thường tự nhận, đã không có đủ khôn ngoan để ngày chiến tranh chấm dứt thành một cơ hội đích thực để anh em cùng dòng máu Việt tìm hiểu nhau, cùng chung sức xây dựng đất nước.Tiếc thay, và đau thay, cái giá tử vong cao ngất của hơn 2 triệu thường dân đôi bên, của hơn 1triệu lính miền Bắc và xấp xỉ 300.000 lính miền Nam đã chỉ mang lại một sự thống nhất địa lý và hành chính, trong khi thái độ thù hận với chính sách cướp bóc của bên thắng trận đã đào sâu thêm những đổ vỡ tình cảm dân tộc, củng cố một chế độ độc tài và đẩy hơn một triệu người rời quê hương đi tỵ nạn cộng sản, với một ước tính khoảng 10% đã chết trên biển cả.
Bằng cách làm suy yếu các đồng minh của Mỹ, chính quyền Trump đã làm suy yếu việc răn đe mở rộng của Mỹ, khiến nhiều quốc gia cân nhắc liệu họ có nên có vũ khí hạt nhân cho riêng mình không. Nhưng ý tưởng về việc phổ biến vũ khí hạt nhân nhiều hơn có thể ổn định dựa trên nền tảng của các giả định sai lầm.
Tạp chí TIMES kết thúc cuộc phỏng vấn với Tổng thống Trump nhân dịp đánh dấu 100 ngày ông ta quay lại Tòa Bạch Ốc (20/1/2025) bằng câu hỏi, “John Adams, một công thần lập quốc, vị tổng thống thứ hai của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ (1797 – 1801) đã nói chúng ta là một quốc gia pháp trị, chứ không phải bất kỳ người nào, Tổng thống đồng ý không?” Donald Trump trả lời: “Chúng ta là một chính phủ do luật pháp cai trị, không phải do con người sao? Ồ, tôi nghĩ vậy, nhưng anh biết đấy, phải óc ai đó quản lý luật pháp. Bởi nên, con người, nam hoặc nữ, chắc chắn đóng một vai trò trong đó. Tôi không đồng ý với điều đó 100%. Chúng ta là một chính phủ mà con người tham gia vào quá trình thực thi luật pháp, và lý tưởng nhất là anh sẽ có những người công chính như tôi.”
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.