Hôm nay,  

Ba Chuyện kể cho Ngày Của Mẹ

09/05/202500:00:00(Xem: 1169)

01 Truyen Ban sanh

Đức Phật kể truyện Bản sanh.

Trong tuần lễ Ngày Của Mẹ, hãy kể cho nhau nghe những chuyện về tình mẹ và lòng hiếu thảo. Để nhớ với nhau rằng không có gì cảm động hơn lòng mẹ thương con. Và để nhắc với nhau rằng không có gì phước đức hơn là sống trong cương vị người con được trọn lòng thờ cha, kính mẹ. Sau đây là lược dịch một số truyện có thể dùng cho ngày lễ này.
 
Truyện Bản sanh Sāma Jātaka 540

Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ.

Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.

Với sự đồng ý của cha mẹ, hai vợ chồng trẻ này trở thành những người tu khổ hạnh và sống trong một ẩn thất do vị Phạm Thiên Sakka cung cấp cho họ trên bờ sông Migasammatā. Phạm Thiên Sakka hỗ trợ cho hai vị này, và một hôm tiên đoán rằng có một mối nguy hiểm lớn đang chờ đợi họ, nên đã thuyết phục họ hãy sinh một đứa con trai để sẽ được chăm sóc về sau. Chàng Dukūlakumāra nói rằng hai vợ chồng đã cam kết giữ hạnh trong sạch, nên không thể nào có con. Phạm Thiên Sakka nói rằng có một cách: vào đúng một thời điểm tốt lành chọn trước, chàng Dukūlakumāra chỉ cần đưa 1 ngón tay chạm vào rốn của Pārikā, thì cô sẽ thụ thai. Khi đứa con trai chào đời, họ gọi cậu là Sāma, và vì cậu có màu da vàng, nên cậu được còn gọi là Suvaṇṇasāma. Cậu chính là Bồ tát, một tiền thân của Đức Phật.

Một ngày nọ, sau khi Sāma lớn lên, cha mẹ cậu trở về sau chuyến đi hái rễ cây và quả trong rừng, trú ẩn dưới một cái cây trên một tổ kiến. Nước nhỏ giọt từ cơ thể họ khiến một con rắn sống trong tổ kiến ​​tức giận, và hơi thở độc của rắn làm mù cả hai người. Khi trời tối, Sāma đi tìm cha mẹ và đưa họ về nhà. Từ đó trở đi, cậu chăm sóc họ.

Một hôm, Pīḷiyakkha, vua của Bārāṇasī, trong một lần đi săn nai, để mẹ mình trông coi vương quốc, đã nhìn thấy Sāma đang múc nước, trong khi bên cạnh cậu là một con nai đứng uống nước suối. Vua ngạc nhiên, khi thấy nai không sợ trong khi Sāma đang đổ nước cho đầy bình. Nhà vua đã nghĩ cậu là một vị siêu nhiên, hay là một phi nhân thế giới bên kia, nên bắn mũi tên.
 
Khi Vua Pīḷiyakkha nghe Sāma là ai và rằng cậu là trụ cột của cha mẹ mình như thế nào, vua vô cùng đau buồn. Sāma ngã xuống ngất xỉu vì mũi tên tẩm độc, và nhà vua nghĩ rằng cậu đã chết. Một thiên nữ tên là Bahusundarī, người đã là mẹ của Sāma bảy kiếp trước, sống ở cõi trời Gandhamādana và luôn theo dõi Sāma. Hôm nay, cô đã đến một hội đồng của các vị chư thiên và đã quên quan sát cậu trong một thời gian, nhưng cô đột nhiên nhận ra mối nguy hiểm mà cậu đã rơi vào.

Cô hiện ra, đứng trên không trung gần Vua Pīḷiyakkha, không bị vua nhìn thấy, và ra lệnh cho vua hãy đi và cảnh báo cha mẹ của Sāma. Vua nghe âm thanh từ giữa hư không, sợ hãi, đã làm theo lệnh, và sau khi tiết lộ danh tính của mình, thông báo cho họ về số phận của Sāma và vai trò của nhà vua trong đó. Tuy nhiên, cả hai vợ chồng Dukūlakumāra và Pārikā đều không nói lời oán giận với vua, vì họ đã tu hạnh từ bi từ lâu. Họ chỉ yêu cầu được đưa đến nơi thi thể của Sāma nằm. Đến nơi đó, bà Pārikā đã thực hiện một Hành động Chân lý (saccakiriyā) trang nghiêm, nói rằng với lòng yêu thương của một người mẹ yêu con, và với phước đức của hạnh tu từ bi nhiều kiếp luôn quán sát để yêu thương khắp tất cả chúng sanh các cõi cũng y hệt như yêu thương con một của mình, bà nguyện rằng với oai lực đó, xin cho con khỏe mạnh bình thường trở lại: tức khắc, chất độc rời khỏi cơ thể của Sāma, khiến cậu thiếu niên khỏe lại.

Thiên nữ Bahusundarī từ cõi trời cũng làm một Hành động Chân lý để ban phước, và cha mẹ của Sāma đã lấy lại được thị lực. Sau đó, Sāma đã dạy cho vị vua kinh ngạc, kể cho vua nghe về cách mà ngay cả các vị chư thiên cũng phòng hộ những người yêu thương cha mẹ mình.

Câu chuyện Bản sanh trên được Đức Phật kể liên quan đến một chàng trai trẻ ở Sāvatthi. Sau khi nghe Đức Phật giảng dạy, anh đã xin phép cha mẹ mình rất khó khăn và gia nhập Giáo đoàn. Anh sống trong tu viện năm năm, và không đạt được trí tuệ, nên trở về góc rừng ẩn tu, và trải thêm 12 năm nữa. Cha mẹ nhà sư này đã già đi, và vì không có ai chăm sóc họ, những người hầu của họ đã cướp mất tài sản của họ. Người con trai của họ, nghe được điều này từ một nhà sư đến thăm sư nơi góc rừng, đã ngay lập tức rời khỏi ẩn thất của mình và trở về Sāvatthi. Ở đó, nhà sư chăm sóc cha mẹ, cho họ thức ăn và quần áo mà ngài có được bằng cách đi khất thực, thường xuyên nhịn đói để họ có thể ăn. Các nhà sư khác đã chỉ trích sư này vì đã hỗ trợ những người tại gia, và chuyện này đã được trình với Đức Phật. Tuy nhiên, Đức Phật, khi nghe câu chuyện của nhà sư, đã khen ngợi nhà sư.

Dukūlakumāra là kiếp trước của Mahā-Kassapa, Pārikā là tiền thân của Bhaddā Kāpilānī, Vua Pīḷiyakkha là kiếp trước của Ānanda, Sakka là tiền thân Anuruddha, và thiên nữ Bahusundarī là tiền thân của Uppalavaṇṇā.

02_hình-chính-trang-nhất-con-chim-than-thoai

Con chim thần thoại.

Truyện cổ Sri Lanka: Người Con Biết Ơn và con chim thần thoại

Trên những ngọn đồi xanh tươi của Ceylon cổ đại, nằm giữa những đồn điền trà và thác nước đổ xuống, có một người nông dân khiêm nhường tên là Sena. Ông là một người đàn ông tốt, đôi bàn tay chai sạn vì nhiều năm làm việc, nhưng trái tim ông luôn dịu dàng. Vợ ông đã qua đời vài năm trước, để lại cho ông đứa con trai duy nhất, cậu bé Kumara.

Sena đã dành hết tình yêu thương và sự tận tụy của mình để nuôi dạy Kumara. Ông làm việc không biết mệt mỏi để chu cấp cho con, để cậu bé có đủ thức ăn và được giáo dục từ các trưởng tộc trong làng. Kumara lớn lên, thông minh và ngoan ngoãn, trái tim cậu tràn đầy tình cảm dành cho cha mình. Cậu nhìn thấy những nếp nhăn lo lắng hằn trên khuôn mặt Sena và sự mệt mỏi trong từng bước chân của cha, và mong muốn được giảm bớt gánh nặng cho cha.

Một ngày nọ, khi Kumara tròn mười sáu tuổi, cậu đến gần cha mình với ánh mắt đầy quyết tâm. "Cha ơi," giọng cậu trầm hơn và kiên quyết hơn, "cha đã vất vả vì con suốt những năm qua. Giờ đến lượt con giúp cha. Con muốn rời khỏi làng và tìm kiếm vận may. Với bất cứ thứ gì con kiếm được, con sẽ trở về và đảm bảo cha sống thoải mái trong suốt quãng đời còn lại."

Trái tim Sena tràn ngập niềm tự hào và một chút buồn bã. Ông biết ý định của con trai mình là cao cả, nhưng ý nghĩ phải ở một mình khiến ông đau nhói. Tuy nhiên, ông sẽ không cản trở tham vọng của Kumara. Với một lời chúc phúc và một vài đồng xu buộc trong một tấm vải, ông chào tiễn biệt con trai mình.

Cậu Kumara đã đi nhiều ngày, đi qua những thị trấn nhộn nhịp và vùng nông thôn yên tĩnh. Cậu đã làm ở bất cứ nơi nào có thể, làm việc như một người làm thuê, một người khuân vác và thậm chí là giúp đỡ một thương gia du lịch. Cậu trung thực và chăm chỉ, và dần dần, túi tiền nhỏ của cậu bắt đầu lớn lên.

Một buổi chiều oi bức, khi Kumara nghỉ ngơi dưới bóng mát của một cây đa lớn, cậu thấy một ông già ngồi gần đó, trông có vẻ đau khổ. Ông lão yếu ớt và quần áo rách rưới. Kumara, nhớ lại những năm làm việc nặng nhọc của cha mình, cảm thấy một nỗi thương cảm. Cậu đến gần ông lão và hỏi, "Thưa bác, bác có gặp rắc rối gì không? Cháu có thể giúp gì không?"

Ông lão ngước lên, đôi mắt mệt mỏi. "Chào cậu tốt bụng", cụ khàn giọng, "Tôi là một lữ khách nghèo, và tôi đã mất hết tiền. Tôi đói và không có nơi nào để đi".

Không chút do dự, Kumara đưa cho ông lão một ít thức ăn mà chàng mang theo và chia sẻ một phần tiền tiết kiệm ít ỏi của mình. Ông lão biết ơn chấp nhận, đôi mắt đẫm lệ. Ông cụ ban phước lành cho Kumara và tiếp tục lên đường.

Kumara, giờ đây còn ít tiền hơn, tiếp tục cuộc hành trình của mình. Chàng không hối hận về hành động tử tế của mình; thực tế, nó khiến chàng cảm thấy hài lòng một cách lặng lẽ. Sau nhiều tháng làm việc chăm chỉ, Kumara đã tiết kiệm được một khoản tiền kha khá. Cuối cùng anh đã sẵn sàng trở về làng và thực hiện lời hứa với cha mình.

Tuy nhiên, khi đi qua một thị trấn nhỏ, cậu chứng kiến ​​một cảnh náo động. Một đám đông tụ tập quanh một chiếc lồng nhốt một con chim vẹt xinh đẹp. Con vẹt đang hót một giai điệu du dương nhưng buồn thảm, đôi mắt tràn ngập nỗi buồn. Người thương gia đang giữ chiếc lồng rao bán, đang đòi một cái giá cao cho con chim.

Kumara cảm thấy thương cảm sâu sắc với con chim bị nhốt trong lồng. Nó nhắc anh nhớ đến nỗi nhớ nhà mà chính anh đã cảm thấy trong suốt chuyến đi của mình. Không chút do dự, anh đã dùng một phần tiền tiết kiệm của mình để mua con vẹt. Người thương gia hài lòng. Nhưng Kumara nhẹ nhàng mở lồng và thả con vẹt ra. Con chim bay vòng quanh anh một vòng, như thể để biết ơn, trước khi bay vút lên trời và biến mất vào các tán lá xanh tươi.

Giờ đây, với số tiền ít hơn nhiều so với mong đợi, Kumara cuối cùng cũng đến được ngôi làng của mình. Cậu tìm thấy cha mình, Sena, tóc ông giờ đã bạc hơn và vai ông còn khom hơn, nhưng mắt ông sáng lên niềm vui vô bờ khi nhìn thấy con trai mình. Kumara kể lại cuộc phiêu lưu của mình, bao gồm cuộc gặp gỡ với ông già và việc giải thoát con chim vẹt. Sena chăm chú lắng nghe, trái tim tràn ngập niềm tự hào trước lòng trắc ẩn của con trai, mặc dù đầu óc thực tế của ông hơi lo lắng về số tiền tiết kiệm đã giảm đi.

Sáng hôm sau, khi Kumara và Sena đang dùng bữa tối giản dị, họ nghe thấy tiếng hót du dương bên ngoài túp lều khiêm tốn của mình. Đậu trên một cành cây gần đó là chính con vẹt mà Kumara đã giải thoát. Nhưng lần này, nó ngậm một viên hồng ngọc lấp lánh trong mỏ. Nó thả viên ngọc xuống chân Kumara rồi bay đi.

Sena và Kumara vô cùng kinh ngạc. Họ đã bán viên hồng ngọc với số tiền khá lớn, nhiều hơn nhiều so với số tiền mà Kumara đã tiết kiệm được ban đầu. Với số tiền mới kiếm được này, Kumara đã có thể mang lại cho cha mình một cuộc sống thoải mái, đúng như lời cậu đã hứa.

Con vẹt vẫn thường xuyên đến thăm họ, mỗi lần mang theo một viên ngọc quý. Sena và Kumara sống hạnh phúc, những ngày tháng của họ tràn ngập sự mãn nguyện và biết ơn. Dân làng kinh ngạc trước vận may của họ và thì thầm về người con trai biết ơn và chú chim kỳ diệu.

03 co gai hieu thao

Cô gái hiếu thảo.


Người con gái hiếu thảo: Ma Htwe

Sau đây là một câu chuyện dân gian từ Myanmar (Miến Điện) về cô gái tên là Ma Htwe. Trong một ngôi làng nhỏ nằm cạnh Sông Irrawaddy, nơi những ngôi chùa vàng lấp lánh dưới ánh mặt trời nhiệt đới, có một bà góa phụ khiêm nhường tên là Daw May. Bà đã trải qua gian khổ kể từ khi chồng qua đời, làm việc không biết mệt mỏi trên những cánh đồng lúa để nuôi dạy cô con gái duy nhất của mình, Ma Htwe.

Ma Htwe là một cô gái có lòng hiếu thảo và ân sủng phi thường. Cô đã chứng kiến ​​những nỗ lực không biết mệt mỏi của mẹ mình và trái tim cô đau nhói muốn giảm bớt gánh nặng cho Daw May. Từ khi còn nhỏ, cô đã giúp việc nhà, học nấu những bữa ăn đơn giản nhưng bổ dưỡng, và thậm chí còn mạo hiểm ra đồng để giúp mẹ trong mùa gặt lúa. Đôi bàn tay nhỏ bé của cô làm việc chăm chỉ, tinh thần của cô được thúc đẩy bởi tình yêu thương và lòng biết ơn sâu sắc đối với mẹ, người phụ nữ đã hy sinh mọi thứ vì cô.

Khi Ma Htwe trưởng thành, vẻ đẹp của cô rạng rỡ như mặt trời mọc. Đôi mắt cô chứa đựng sự dịu dàng và nụ cười ấm áp như những cơn mưa gió mùa trên vùng đất khô cằn. Nhiều chàng trai trẻ trong làng muốn cầu hôn cô, bị thu hút bởi vẻ đẹp và đức hạnh nhu mì của cô. Tuy nhiên, trái tim của Ma Htwe vẫn luôn hướng về mẹ mình. Cô không thể chịu đựng được ý nghĩ phải để Daw May một mình.

Một ngày nọ, một thương gia giàu có từ một thành phố xa xôi đến làng của họ. Ông ta bị vẻ đẹp của Ma Htwe quyến rũ và đã đề nghị đưa bà Daw May một khoản sính lễ lớn, đủ để bảo đảm cho bà sự thoải mái trong suốt quãng đời còn lại. Bà Daw May, nhìn thấy cơ hội để con gái mình có một cuộc sống dễ dàng và an toàn, đã nhẹ nhàng thúc giục Ma Htwe cân nhắc lời cầu hôn.

Ma Htwe lắng nghe mẹ mình với đôi mắt đẫm lệ. Cô yêu thương mẹ vô cùng và muốn mẹ cô được bình an, hạnh phúc. Tuy nhiên, ý nghĩ phải rời xa mẹ và sống ở một thành phố xa xôi khiến cô vô cùng buồn bã. Cô bày tỏ sự bối rối của mình với Daw May, giọng nói đầy cảm xúc.

"Mẹ ơi", cô nói, "hạnh phúc của mẹ là mong ước lớn nhất của con. Nhưng làm sao con có thể rời xa mẹ? Mẹ là mặt trời và mặt trăng của con, là người bảo vệ và là người dẫn đường của con. Việc phải xa mẹ giống như xé nát trái tim con ra khỏi lồng ngực vậy."

Trái tim bà Daw May tràn ngập tình yêu thương và niềm tự hào trước những lời của con gái. Bà luôn biết lòng tận tụy của Ma Htwe, nhưng lời cầu xin chân thành của cô đã chạm đến trái tim bà sâu sắc. Sau nhiều lần suy ngẫm, bà Daw May nói với người thương gia rằng Ma Htwe không thể rời xa bà. Người thương gia, mặc dù thất vọng, nhưng đã cảm động và rời đi trong sự tôn trọng.

Tin tức về lòng tận tụy không lay chuyển của Ma Htwe đối với mẹ mình lan truyền khắp vùng. Mọi người ngưỡng mộ lòng vị tha và lòng hiếu thảo sâu sắc của cô. Người ta nói rằng chính những linh hồn của vùng đất này cũng mỉm cười hài lòng trước mối tình mẹ con này.

Một năm nọ, một trận hạn hán nghiêm trọng đã xảy ra trong vùng. Những cánh đồng lúa héo úa, dòng sông cạn kiệt và nạn đói đe dọa ngôi làng. Bà Daw May lâm bệnh nặng, kiệt sức vì đói và kiệt sức. Cô Ma Htwe đau khổ. Cô chăm sóc mẹ ngày đêm, cho bà ăn chút thức ăn ít ỏi họ có và cầu nguyện cho mẹ mau bình phục.

Trong cơn tuyệt vọng muốn cứu mẹ, Ma Htwe đã thề một lời thề trang trọng. Cô sẽ đi đến Núi Popa linh thiêng, nơi ở của các vị thần linh mạnh mẽ, và cầu xin chân thành cho sức khỏe của mẹ. Cuộc hành trình dài và gian khổ, đầy rẫy nguy hiểm, nhưng quyết tâm của Ma Htwe, được thúc đẩy bởi tình yêu dành cho mẹ, đã tiếp thêm sức mạnh cho cô.

Khi đến ngọn núi linh thiêng, Ma Htwe leo lên đỉnh cao nhất và phủ phục trước ngôi đền cổ. Với nước mắt lăn dài trên má, cô cầu nguyện hết lòng, nói sẵn lòng dâng hiến mạng sống của mình để đổi lấy sự bình phục của mẹ. Lời cầu xin chân thành của cô bỗng nhiên vang vọng khắp những ngọn núi chập chùng.

Cảm động trước lòng thành kính phi thường của bà, các vị thần linh nhân từ đã lắng nghe lời cầu nguyện của bà. Một làn gió mát thổi qua vùng đất khô cằn, và bầu trời vốn xanh ngắt không ngừng, bắt đầu tụ mây. Chẳng mấy chốc, cơn mưa mang lại sự sống đổ xuống, giải tỏa cơn khát của vùng đất và hồi sinh những cánh đồng héo úa.

Trở lại làng, cụ bà Daw May, người đã yếu đi, bắt đầu lấy lại sức lực. Một sự hồi phục kỳ diệu đã bắt đầu ngay khi những cơn mưa bắt đầu rơi. Dân làng vui mừng khi những cơn mưa trở lại và Daw May hồi phục, họ cho rằng đó là nhờ lòng thương mẹ, tận tụy, quên mình và lời nguyện hy sinh thân mạng của Ma Htwe.

Ma Htwe trở về sau chuyến hành trình gian khổ, yếu ớt nhưng tràn đầy hy vọng. Cảnh tượng mẹ cô ngồi dậy và mỉm cười, tràn ngập niềm vui khôn xiết trong lòng cô. Nạn đói đã qua, đất đai trở nên màu mỡ trở lại và ngôi làng đã được cứu.

Từ ngày đó trở đi, Ma Htwe được tôn kính như một biểu tượng của lòng hiếu thảo và tình yêu sâu sắc mà một người con gái có thể dành cho mẹ mình. Hành trình của cô đến Núi Popa và lời cầu nguyện của cô đã trở thành một câu chuyện được trân trọng, được truyền qua nhiều thế hệ, nhắc nhở mọi người về mối liên kết thiêng liêng giữa mẹ và con và sức mạnh phi thường của lòng hiếu thảo.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.