I.
Mặt trời xoay chậm hoặc trái đất xoay nhanh,
Khí hậu biến đổi, định luật thiên nhiên xáo trộn,
Hay tâm tư nhập vào thế giới 7 chiều.
Năm đó,
Không có tháng 4.
Cuối tháng 3 nằm ngủ ngoài hiên nhà, quá khuya thức dậy đầu tháng 5. Mây xuống thấp nhập sương mù lên cao. Ánh đèn lảo đảo suốt đêm ý nghĩ nín câm, chờ trời sáng.
Sớm dậy, xuống phố uống cà phê với bạn. –“Con ơi, nhớ về ăn trưa.” “Chiều con mới về, mẹ nhớ uống thuốc ho.”
Một ngày lem lọ bình thường, tin chiến sự hòa giải. Không Nga, không Mỹ, không Trung quốc, chỉ Bắc Nam bắt tay. Huynh đệ một nhà cần gì hàng xóm.
Lịch sử thật hay giả, hình nộm có gì lạ? Sống là kinh qua dối trá đối phó với gian tà khiến lòng tin chán ngán chân lý.
Xóa bỏ chính trị tiêu chảy, Hiệp định Paris táo bón. Đồng minh đột quị. Hóa “chiến tranh” thành tử ngữ sử thi. Còn “hòa bình,” sống chung, không ghét bỏ, cho nhau một đời thích thú đáng làm người. “Tuần tới ra Hà Nội chơi, đi không?”
Lịch sử tái thiết, quí hơn độc lập là tử tế, quí hơn tự do là tình thương. “Ông chú tập kết nghèo vừa vào Sài Gòn, tớ chưa đi được.”
Trả thù chiến tranh là sống bình an.
Trả thù cái chết là sống vui sướng.
Chúng tôi, những thế hệ kế thừa lịch sử khôn dại so le, đổi thay ngày mai bằng chữ nghĩa.
II.
Quán cà phê bọc kính xung quanh, ánh sáng rạng rỡ, nắng xuân nhảy múa trên màu xanh, bạn tôi, nhà văn, _“Chào anh.” _”Ừ, kể nghe tiểu thuyết mới.”
-- ”Hư cấu hiện thực, thế giới song song với dĩ vãng, có thật dù vô hình, những gì cao quí nhất đều vô hình có thật.”
-- ”Bắt đầu đi.”
-- ”Tôi chạy bộ theo dòng nghiệt ngã, sau lưng chiến tranh xua đuổi con người, trên con đường đỏ tươi nhuộm máu. Tháng 4 bắt đầu chiêm bao, thế giới thân yêu sụp đổ, khó tin bao cảnh ngộ tương tàn. Điên rồ không thể tưởng. Ngu xuẩn không thể tưởng. Chết vô số chồng chất hai bên đường, ghê rợn không thể tưởng.
Tại sao người ta giết nhau? Câu hỏi ngàn năm cung nhiều hơn cầu. Câu trả lời đau đáu vô hạn. Người vẫn giết người.
Tại sao số đông vâng lời số ít lãnh đạo?
Tại sao tin rằng chân lý chỉ ở một bên? (1)
Tại sao xung phong vũ khí giải quyết sự thật?
Tại sao giết người? Câu hỏi ngàn năm khóc nhiều hơn cười. Câu trả lời đau đớn rách đời cha mẹ vợ con.
Viên đạn xuyên qua bắp vế, cột chặt bằng vải áo thun, tôi lê lết cho kịp dòng loạn lạc, giữa tình người hốc hác thây ma, giữa sợ hãi mồ mã mai sau đầy thế hệ.
Chiến tranh nào cũng vậy, chỉ tên người chết khác nhau. Cũng gãy chân, mất đầu, cháy rụi. Chỉ tuổi đời đáng thương. Cũng mất mẹ mất cha mất vợ mất chồng mất con mất cháu mất anh mất em, chỉ mỗi đêm mỗi người khác nhau hiu quạnh.
Lý do gì cũng vậy. Chiến tranh là rễ, hòa bình là cây. Rễ càng sâu, cây càng lớn, càng cao. Tuy nhiên mai sau, cây có trái và bóng mát, rễ thì không.
Chiến tranh, không có gì mới lạ, nhưng khó quen. Những kẻ gây chiến, càng khó hiểu. Những ai muốn bình an đành nhẫn nhục vì hòa bình phải chờ tâm hồn bớt độc ác.
Chiến tranh và hòa bình dính nhau như sinh đôi. Lãnh đạo có tình thương đánh đổi: thu ngắn chiến tranh kéo dài hòa bình. Lãnh đạo khôn ngoan dùng hòa bình trả thù chiến tranh.
Lấy gì phân biệt xác chết hữu lý và vô ích?
Lấy gì đau lòng giữa người lớn và trẻ con?
Lấy gì an ủi tử vong vì kẻ khác gây ra ly loạn?
Lấy gì hận thù?
Lấy gì chịu đựng?
Lấy gì khỏi giật mình khi phát giác lãng quên?
Nghĩa địa chứng kiến, không biết tên nào anh hùng hay hèn nhát, nhưng biết sao là mất mát, là yêu thương.
Nghĩa địa nhận vào thịt da, trả ra xương xẩu. Nhận tình người thâm sâu, trả lại được thứ gì?
Sống tiếp tục giết sống. Chết tiếp tục thói quen. Có vẻ, xét ra sống rất hèn khi xem cái chết thuộc người khác.
Tôi chạy ngang Nha Trang ghé vào nhà. Hoang tàn cảnh tha ma ngổn ngang xác người chưa bia mộ. Từ Nguyễn Hoàng, Lê Thánh Tôn chạy xuống Bạch Đằng, nhà quen chứa người lạ, nhà tôi tất cả kỷ niệm trống trơn.
Mẹ dẫn con cuốn theo dòng di tản. Nhắm mắt mỗi đêm có thức dậy sớm mai? Anh trai chị gái biết khi nào gặp lại? Trong góc nhà, kinh hoàng lượm được một ngón tay.
Trên vách tường bên đầu giường tôi ngủ, dòng bút chì xuống lên vội vã dặn dò: “Cả nhà đi Sài Gòn, con về gặp.” Chắc anh tôi viết lời mẹ khóc.
Thế giới này, mẹ là khối khổ đau. Mẹ nào cũng vậy, tuy khác da màu không khác nước mắt. Có bao nhiêu mẹ qua đời trong chiến tranh nam bắc, giữa lúc chờ con biền biệt không khăn tang.
Rất dễ sợ khi ngày không còn sáng. Cảnh tàn hoang tưởng tượng chuyện xót thương. Bàn gãy hai chân, chị ơi, bám lấy ghế. Giường nổi bập bềnh, mấy đứa cháu kêu rú lênh đênh. Anh cởi quần dài cột thân chống dòng lội. Mẹ quào đôi tay trong bóng tối không đèn như người điên tuyệt vọng. Em lạc nơi nào, đám mèo náo động báo hung tin, kêu ầm ĩ cả dân tộc đang khóc.
Tôi bước ra ngoài, làm con hay làm lính? Tìm mẹ hay tự trọng đấu tranh? Câu hỏi bạc trắng đuổi theo tuổi già thao thức.
Đêm xuống hoang mang sân tĩnh lặng, lượm được mặt trăng gãy đôi. Hơi gió tanh hôi mất bình tĩnh. Bóng mẹ thất thểu hành trình. Mẹ ơi, đừng chết.”
Hiện thực luôn khổ sầu, hư cấu cần huyền ảo. Mẹ không thể sống lại nếu không có sáng tạo. Vợ không thể về thăm khi không có chiêm bao. Thế giới có thể tốt đẹp hơn, nếu bắt đầu hư cấu khoa học tưởng tượng. (2)
“Không có 30 tháng 4, tôi phép lạ một ngày diệu kỳ. Lính bắc lính nam mặc đồ xe pháo mã. Tiến lên lùi lại chiến trận cuộc cờ chơi. Một bên Sài Gòn, một bên Hà Nội. Hai tướng anh em, bồ sĩ bà con. Trận cờ nào không mỏi mòn chiến hận để xong rồi nâng ly rượu chén trà?
Trang bị súng đạn bằng nhựa, xe tăng bằng giấy, lưỡi lê đôi đũa, lựu đạn cơm vắt, súng ngắn cái muỗng, súng dài bánh mì, tiến lên đồng đội, tiến lên đồng chí, đánh nhau theo tiêu chỉ, gần chết thì ngừng.
Xe tăng giấy tiến vào dinh Độc Lập. Pháo đầu mã đội xa nhập cung. Máy bay củ khoai thả bột Phủ Chủ Tịch. Song mã giao chân pháo chiếu tướng.
Không có 30 tháng 4 vẫn có giờ ngưng bắn. Lính xanh lính đỏ ngồi lại liên hoan. Muỗng đũa bánh mì cơm vắt có sẵn, thêm chả cá Thăng Long, bún mắm miền Tây, mì quảng Hội An, nem Ninh Hòa, khô bò gỏi đu đủ…Đừng quên bia lạnh, rượu Làng vân, rượu đế Gò Đen, mắm tôm và mắm ruốt…
Mời cha, mời mẹ, mời anh, mời chị, mời em, mời mày, mời tao.
Câu hỏi ngàn năm, tại sao? Tại sao nên yêu người? Câu trả lời đáng lẽ cười nhiều hơn khóc. Lãnh đạo đáng lẽ phải nghe dân đông. Chân lý đáng lẽ ở trong lòng. Vũ khí để xỉa răng mỗi khi cờ bí cuộc.
Dẹp bàn cờ hẹn lại chuyện hơn thua.”
III.
Lịch sử ghi chép những ván cờ nổi tiếng bằng mực đỏ, ghi chú bình giải bằng mực đen, ngụ ý bằng mực hóa học không màu sắc.
Lịch sử có không gian một mặt, thời gian một chiều, trăm năm thu ngắn vài trang sách. Sự thật, con voi; lịch sử, cái thúng. Úp lên như thiên thu đội mũ phù du.
Lịch sử có chiều dài. Đời người chiều ngắn. Lấy ngắn đo dài, ai biết đúng sai. Đành bán cái cho định mệnh. Chuyện tháng ngày cứ lệnh khệnh vui, sao nhăn nhó hoài, không chịu cười?
Lịch sử, cứ tin như ngoan đạo, rồi phạm tội cũng không sao. Chữ nghĩa viết trước, không ai cấm viết lại. Tiểu thuyết là gì? Nếu không phải viết chơi?
Thật và giả ngang vai gặp nhau nơi chiều thứ 7 (3), khi các thế giới hết song song, nơi tấm lòng thương yêu bất tử, nơi thế sự thoáng qua.
Ngày huyền ảo rẽ trái vào chạng vạng. Chuyện bình thường rẽ phải đi hư vô.
Chúng tôi chia tay chuẩn bị đi đối đầu phiền muộn.
Tại sao chúng ta phải yêu người? Câu hỏi ngàn năm tức nhiều hơn tưởi. Câu trả lời tư lự nghĩ chưa ra.
Tại sao sống phải gánh chịu buồn đau, không hư cấu tạo đời vui sướng? Câu hỏi ngàn năm bình thường khó hiểu. Tiếng con liêu điêu (4) trả lời khắc khoải trong lòng.
--” À này, tiểu thuyết của anh chừng nào xuất bản?”
Tháng 2-4 năm 2025.
Ghi chú:
1- Chân lý như Bakhtin đề suất là một cuộc đối thoại.
2- Khoa học tưởng tượng là năng lực hư cấu trong giới hạn khoa học.
3- Chiều thứ 7: Trong bối cảnh các chiều cao hơn chiều thứ tư (không gian ba chiều cộng thêm chiều thời gian) và các khái niệm trừu tượng, chiều thứ bảy thường được hiểu là điểm của ý thức thuần túy hoặc là nơi mà tất cả các chiều khác tương tác, cho phép hiểu mọi thứ cùng một lúc.
Góc nhìn toán học: Trong toán học, một chuỗi n số thực có thể được hiểu là một vị trí trong không gian n chiều. Khi n = 7, tập hợp tất cả các vị trí như vậy được gọi là không gian 7 chiều.
Những người khác đề xuất nó như một cách để tiếp cận các vũ trụ khả thi khác nhau với các điều kiện ban đầu hoặc định luật vật lý khác nhau. Một số cách giải thích cho rằng chiều thứ bảy là góc nhìn bên ngoài của chiều thứ năm, giống như bên ngoài của một tòa nhà so với bên trong.
Những giải thích tâm thần tìm thấy trong Ấn Độ giáo, liên kết chiều thứ bảy với luân xa sahasrara, một khái niệm liên quan đến sự thức tỉnh và giác ngộ về mặt tâm linh. Trong một số bối cảnh tâm linh, chiều thứ bảy được coi là cõi ánh sáng trắng bạc và phúc lạc.
(A.I. Oveview.)
4- Con liêu điêu là một loại ve sầu.