Hôm nay,  

Gặp Một Người Gia Rai Ở Nữu Ước*

25/04/202500:00:00(Xem: 523)

Nguoi gia Rai
Minh họa: Tranh Ann Phong. Ghi chú: đây là toàn bức tranh được sử dụng một phần cho bìa sách The Colors of April do nxb Three Rooms Press vừa phát hành đầu tháng 4, 2025.
Khi về già, bạn mắc bệnh mất trí nhớ, rồi mất phương hướng, sau đó mất ngôn ngữ. Nếu bạn sống thật lâu, như một ngọn núi, các chuẩn tắc đạo lý do con người đặt ra sẽ mất sau cùng.

Và theo thứ tự như vậy. Trước cửa một tiệm cà phê gần khu vực tưởng niệm sự kiện 911, gần nền của tòa tháp đôi đổ sập, xuôi về phía hiệu sách cũ Strand ở Broadway, nơi tôi mua được một tập thơ của Gerald Stern, tôi gặp anh Siu Kpa, người Gia rai sáu mươi tuổi, và vợ anh. Anak Gia rai, con của Gia rai. Hay Giơ rai, Jarai, Jrarai, Chơ rai đều được, cả hai nói tiếng Việt, nhưng anh nói giỏi hơn. Thật ra chị là người Ba na, nghe phát âm như Bơ na, hay Bờ na, hay Bà nà, cũng là Ba na dưới núi, Ba na trên núi, Bơ Nâm, Bơ Môn. Cả hai đều mất trí nhớ nhưng theo hướng ngược chiều nhau.

Anh mất trí nhớ như một người già, tức là mất trí nhớ gần, lập tức, còn chuyện quá khứ xa nhớ rõ. Chị ngược lại, không nhớ những chi tiết quan trọng trong đời, lịch sử cá nhân, nhưng lưu giữ kiến thức gần, có khả năng học hỏi việc trước mắt, lập tức và cần cho đời sống. Đôi khi mất phương hướng và mất một phần ngôn ngữ. Anh có thể trong một lúc quên cả tên mình, quên nhiều thứ cần thiết, như địa chỉ nhà mình, tên người thân, dự định trong một giờ sắp tới, nhưng nhớ lại quá khứ xa với chi tiết chính xác, nhất là khi đó là quá khứ tập thể, của plơi, buôn làng. Nhớ những cái khố trắng kẻ sọc, cái khăn quấn đầu màu chàm, gọn, buông thả qua một bên, của đàn ông Gia rai. Nhớ trang phục phụ nữ Ba na ngày hội, kẻ hoa văn đỏ, viền trắng, lòng thòng tua trắng.
Nhớ những ngọn núi buồn rầu, xanh tía, cao vút, như cái nhìn chăm chú, càng cao lên càng xanh càng sẫm, càng buồn.

Không phải trong quán cà phê, mà trước cửa quán, họ ngồi trên thềm nhà, ở New York bạn biết rồi, thừa không gian vỉa hè cho người lang thang. Vợ chồng anh bị cướp nhà, bị lấy đất, bị xua đi trôi giạt như nhiều người Tây nguyên khác. Người Gia rai theo mẫu hệ, chồng theo vợ, nhưng anh quen một người Ba na, một chuyện hiếm gặp. Tục lệ bên dòng tộc chị hôn nhân một vợ một chồng chung thủy, nhưng trong sinh hoạt lại tự do phóng khoáng. Đôi vợ chồng trẻ ở luân phiên bên vợ bên chồng, có với nhau một đứa con, tám tháng, chết trên đường chạy trốn. Trên tay chị. Con trai hay con gái? Con trai, anh bảo. Con gái, chị bực bội cãi lại. Tôi hỏi tên cháu. Tên nó là Langanh, chị đọc là Nh’anh, thì chắc con gái rồi. Nhưng có chắc tên đó không? Sau khi sinh con đầu lòng, cặp vợ chồng ra ở riêng, làm một ngôi nhà nhỏ xinh bên suối. Siêng năng, làm giỏi, họ có đàn gà đông đúc, đàn lợn ba con, có cả một con ngựa. Lông gì? Đen tuyền. Nhưng chắc không phải thế. Màu ấy hiếm. Một con chó, phải không, màu gì, màu vàng, có đốm trắng, không chắc, đi khập khiễng. Nhà của họ bị bọn người di dân theo kinh tế mới từ các vùng nghèo khó, không mảnh đất cắm dùi, có máu anh chị dữ dằn, nhưng lại sẵn sàng tuân phục hoặc hùa theo các mệnh lệnh cấp trên hơn dân thường, phá sạch để cướp đất. Các phong tục đẹp, các thể chế cộng đồng phi chính thức, các niềm tin và ý thức tự nguyện đồng loạt bị phá vỡ. Bị đập nát đền thờ, nhà tang lễ, nhà Rông, nơi thờ phụng, họ đi biểu tình, đi từng đoàn, hàng trăm người, hàng ngàn. Họ bị nghi ngờ, giải tán, đánh đập.

Và bị săn đuổi. Từ Gia lai qua Kon tum qua Đăk lăk. Bị săn đuổi trên đèo Cheo reo, nơi phát tích của dân tộc Jrarai như những con thú dữ, có hại, cần tiêu diệt tận gốc. Chạy vào rừng. Bị bắn. Họng súng cách anh mười mét, bảy mét, có khi năm mét, khạc lửa, từ sau một gốc cây kơ nia vừa bị đốn ngã, tươi rói, chảy máu vàng. Máu cây vướng lâu trên người đông lại vàng rực như hổ phách. Một mảnh đạn xuyên suốt qua ống chân phải, nay vẫn còn đi cà nhắc. Một mảnh đạn khác ghim trong ngực trái, đi sát tim, chạm vào ngoại tâm mạc, sướt qua, như cái chết chơi đùa, rồi nằm im trong nhu mô phổi trái, thùy trên, các bác sĩ để yên chưa kịp lấy ra. Qua Campuchia năm 2001, vào được trại tị nạn, chờ ba năm, phỏng vấn, điều tra ba năm nữa, thanh lọc, năm thứ bảy, đến New York. Chị biết làm sợi từ quả bông, biết dệt vải, biết đan, thêu thùa. Anh biết chế thuốc chữa bệnh từ rễ cây, thuộc hết dược tính. Anh kể chuyện đi bắt ốc, cắt đọt chuối, đẵn cây T’nưng, tìm cây chàm, đem về làm thuốc nhuộm. Mỗi khi nhớ con, chị nằm nghiêng, co chân, gối đầu lên đùi anh, ôm cái bọc vải như ôm một đứa trẻ con, anh hát cho chị nghe trường ca Xinh nhã, hát thuộc lòng, chị nhắm chặt mắt, không cho ánh sáng lọt vào, khóc.

Hãy tưởng tượng một người lớn lên giữa rừng núi Tây nguyên, giữa plơi, sáng mang gùi lên nương, mang con rựa chặt cây, chiều xuống rẫy, chọc lỗ gieo hạt, đêm uống rượu quanh bếp lửa, sống trong huyền ảo bia ký Chăm pa, trong hoang dã đất rừng, bỗng một hôm thấy mình trên đường phố lập loè chớp tắt xanh đỏ tím vàng phơi ngực phơi rốn phơi mông ở New York. Không trở về được, mà cũng không muốn trở về, nhưng không quen hoàn cảnh mới. Con người phải sở hữu điều gì để sống nhưng Siu Kpa không sở hữu điều gì. Không sở hữu điều gì, cái gì, từ rất lâu, khi người miền xuôi tràn vào buôn làng, tước đi vật sở hữu của anh, là mái nhà, sở hữu của làng, là rừng núi, sở hữu của vợ, là đứa con trên tay. Anh làm việc lặt vặt quanh các phố và ngõ hẻm. Có một căn phòng được chính phủ tiểu bang cấp phát cho người tị nạn để ở, nhưng anh và vợ anh, chị Dep, không mấy khi sống ở đó, gặp gì làm nấy, gặp gì ăn nấy, không ra người có nhà cũng không ra người không có nhà, cả hai khoảng sáu mươi tuổi nhưng còn mạnh khoẻ. Dep là tiếng Gia rai anh đặt cho chị ở trại tị nạn, vì cả hai đã quên mất tên chị, một cái tên Ba Na đẹp, không có họ. Có một lần bối rối, tuyệt vọng, mất trí, anh lao vào gầm một chiếc xe tải nhưng được cứu sống, từ đó lúc nào chị cũng đi bên anh, bám sát, họ nói với nhau bằng thứ tiếng Ba na hay Bơ na đã gần tuyệt tích không ai hiểu được.

Không ai cần hiểu. Sau những đợt phỏng vấn liên tục ở trại tị nạn gần biên giới Campuchia – Thái Lan bởi các phái đoàn nhân đạo, sau khi đặt chân đến đất tự do, không ai có nhu cầu hỏi họ điều gì nữa. Ký ức của chị về buôn làng, về nhà Rông của người Ba na cao đẹp, thanh thoát, về cao nguyên, về lễ hội, chiêng trống, đàn t’rưng, ký ức của anh về cây kơ nia cao vút tán lá rộng xòe với những chùm hoa trắng khi mưa xuân lác đác bay về, về bóng núi âm u đại ngàn rủ xuống tâm hồn họ, lạnh tăm, trở thành ký ức tối đen, và ký ức trở thành không cần thiết, và thời gian trở thành ký-ức-không-cần-thiết.

Cái gì không cần thiết sẽ chết.

Trước hết nó trở nên mờ dần, loãng ra, tối tăm hơn, mờ hơn, mịt mù. Như thị giác bị đánh mất. Ý thức khô quắt đi, co rút lại, sáng lên một lúc, rồi tối sầm, thu gọn về. Cho đến khi có người ngồi xuống hỏi chuyện, hình như nhờ đó đã hé ra trong anh chút kỷ niệm còn lại, và ngược lại, khai mở bầu trời bao la của Gia rai, của lịch sử hùng vĩ và bi đát, của những tàn phá và những tội ác của người Kinh đối với các dân tộc cao nguyên.

Nhưng chị nhớ nhất là chú ngựa và con chó, có lẽ vì chúng chạy nhanh nhất, thoát chết. Đôi khi chị gặp con chó của chị loay hoay bới rác ở cuối đường Fith Avenue, chị bắc tay làm loa kêu lớn, nó cong đuôi chạy mất. Một hôm lại có người quen chỉ cho chị con ngựa, gặm cỏ trên cánh đồng bên kia sông Hudson, dưới ráng chiều đỏ rực. Loáng cái, nó cũng biến mất, thỉnh thoảng lại hiện ra. Những con vật cứ trở đi trở lại, phân vân do dự, không biết có nên hài lòng chưa với vùng đất mới.

Nắng của ngày sắp tàn sau lưng tòa cao ốc xua nỗi ám ảnh đi xa dần, làm nó, nỗi ám ảnh ấy, trở nên mát dịu, hắt cái bóng của mình lên tường như bóng một cổ thụ hàng trăm tuổi cao lớn. Đi ngang thư thả dưới cái bóng ấy, sau khoảng sân rộng, một con hạc trắng từ lâu không ai để ý. Có thể ngày trước nó từng đậu xuống trên đỉnh tòa tháp đôi chọc trời sau đó bị đánh sập. Người Việt không cần than khóc cho người Mỹ, vì núi rừng Tây nguyên chính là tòa tháp đôi của lịch sử chúng ta. Nó bước đi trên những tảng đá, dọc theo vũng nước nhỏ, cẩn trọng, chăm chú, nhàn tản. Từ cách tám mét, con hạc trắng lắng nghe câu chuyện của chúng tôi. Không khí ẩm lạnh, mây bay thấp, chiếu bóng xuống vũng nước. Có tiếng đập cánh, con hạc ngửng cổ cao, nhấc mình lên, bay là đà qua các cửa sổ khép kín hắt ánh đèn của tòa nhà cao tầng, dang rộng hai cánh ra, bay chậm lại nửa như lấy đà, nửa như ngẫm nghĩ, rồi đập cánh quả quyết bay thẳng đứng lên. Bay ra khỏi cái bóng của những tòa nhà, thoát ra khỏi sức hút của ký ức, của bóng núi trầm uất, mê muội, hoang dã, nguyên sơ, biến mất trong bầu trời. Nó cất giọng kêu khàn khàn, mờ đục, xen lẫn có tiếng vút cao của chiêng, cồng, đàn T’rưng, đàn Klông pút, tiếng thở dài của một người già thấu triệt lẽ đời, bắt đầu quên, lẫn, nhưng chưa mất phương hướng. Tiếng động của thiên nhiên và của văn hóa bị đe dọa sẽ biến mất.

Thế mà lúc chị thiu thiu ngủ, khi được nhắc lại về cây kơ nia, vì tôi tò mò hỏi, anh chỉ tay về một cây nhỏ dựa bên rào có hoa như hoa tường vi màu tím. Tôi lắc đầu, không phải. Anh bối rối nhưng không thay đổi ý kiến. Tôi mường tượng nhận ra không phải chỉ là mất trí nhớ. Tôi bảo anh thử xác định khoảng cách từ chỗ chúng tôi đứng đến cây, anh không xác định được, nhưng đoán là năm bước. Đi năm bước, anh đưa tay sờ vào thân cây, không được, mất đà, chúi xuống, suýt ngã, anh phải đi thêm năm bước nữa. Hụt. Mất khả năng cảm nhận về không gian, về kích thước, về hình dạng, về khoảng cách, mất phương hướng, là hình thức hiếm gặp của mất ký ức chấn thương có tính chọn lọc. Thêm năm bước nữa, rồi anh cũng chạm được cả người vào nó, ôm lấy nó, như người đi đâu xa về chưa kịp mắc áo khoác lên chiếc sừng trâu đã vội vã ôm lấy cột nhà đen mát rượi.

Nguyễn Đức Tùng
 
*Truyện được nhà văn Đinh Từ Bích Thúy dịch sang tiếng Anh, đăng trong cuốn sách ‘The Colors of April” (A Jarai Tribesman and His Wife – page 102),   vừa được nhà xuất bản Three Rooms Press phát hành.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mặc dù chỉ mới ba năm trôi qua kể từ khi bà Merkel rời nhiệm sở, nhưng thế giới đã thay đổi quá nhiều đến mức mà chức thủ tướng của bà đã được cảm thấy như nó thuộc về một thời đại khác. Cuốn hồi ký mới của bà cho thấy bà bình tâm với những quyết định đã đưa ra, bao gồm cả những quyết định bị phê phán nghiêm khắc nhất.
Nhà thơ, nhà báo Phạm Chu Sa đã tổ chức một buổi ra mắt hai tác phẩm trong vòng thân hữu tại tư gia của họa sĩ Nguyễn Đình Thuần chiều Thứ Sáu 2/5/2025. Tập thơ nhan đề “Tình Không” -- ấn hành cuối đời, gom lại tất cả các bài thơ tình của nhà thơ trong đó có 36 bài thơ đã đăng trước 1975 trên các tuần báo Khởi Hành, Tuổi Ngọc và các tạp chí Văn, Vấn Đề... và nhiều bài thơ tình gần đây. Cuốn thứ nhì là hồi ức “Chuyện Làng Văn” về các mảng đời trước và sau 1975 của 50 văn nghệ sĩ mà tác giả có cơ duyên thân tình.
"Mỗi người đến thế giới này như một kẻ xa lạ, không phải vì họ xa lạ mà bởi vì họ được nhìn bởi người khác, trong đó có các nhà văn, như kẻ xa lạ. Bi kịch của con người là ở chỗ họ quá khác nhau, ở các học thuyết và các niềm tin, ở các quyết định và hành động, nhưng sâu thẳm họ giống nhau khi rắp tâm đi tìm sự thật cuối cùng. Không có công lý và sự thật phổ biến cho mọi trường hợp, và con người luôn luôn chọn đứng về một phía, và đó là bi kịch và hài kịch của họ. Những xung đột giữa người và người, giữa các quốc gia, các chủ nghĩa, đỉnh cao là chiến tranh, ở mức cá nhân là hận thù, những xung đột ấy chỉ có hy vọng hóa giải khi con người nhìn thấy sự thật phía sau câu chuyện lịch sử, những động cơ tâm hồn bên dưới sự thật. Sự hiểu biết ấy, và sự vui thú sinh ra từ hiểu biết ấy, làm nên sức hấp dẫn của tiểu thuyết.
WESTMINSTER (PTH/VB) – Buổi ra mắt sách “Những Người Ở Lại” của tác giả LU Thuy hôm Chủ Nhật 27/4/2025 tại Westminster cũng là dịp để tác giả tâm sự về lý do vì sao viết sách này, cũng là dịp để nghe anh Võ Văn Thiệu, một sinh viên du học tại Ý từ trước năm 1975, kể về không khí thân cộng của các sinh viên từ Miền Nam VN du học tại Pháp
Cuộc chiến Việt Nam đã khép lại từ nửa thế kỷ trước nhưng những hệ lụy vẫn còn ghi khắc trong đời sống, tâm trí và ký ức của nhiều thế hệ người Việt ở quê hương lẫn hải ngoại. Ký ức đau thương lẫn khát vọng xây dựng tương lai đã trở thành chủ đề trung tâm trong nhiều tác phẩm văn học, tuyển tập truyện ngắn "The Colors of April" do Quan Manh Ha và Cab Tran biên tập là một ví dụ điển hình.
Nhà văn Phạm Quốc Bảo trong tuần qua vừa ấn hành tuyển tập Cuốn Lên Bức Mành. Một tác phẩm ghi lại những suy nghĩ của một người đang giữa lứa tuổi 80s từ hải ngoại về những gì còn lưu giữ sau một đời làm báo và viết truyện. Từng trang chữ của ông là cô đọng những cảm xúc của một người không tự cho mình sống một ngày nào mà không nghĩ tới quê nhà. Tuyển tập nhiều bài viết Cuốn Lên Bức Mành gồm ba phần: Hồi ức, Tản mạn, Thơ. Nơi đây, chúng ta gọi ấn phẩm này là cuốn sách sau 50 năm, vì Phần 2 còn được tác giả ghi là: Nửa Thế Kỷ Ngoái Lại. Thực tế, chiều dài của sách là hơn một thế kỷ rưỡi, vì có kể về ông ngoại tác giả là cụ Bùi Văn Giảng (1871-1934). Với chiều dài thời gian như thế, và với cảm xúc của thời điểm 50 năm, tác phẩm của Phạm Quốc Bảo có những trầm lắng rất là tịch mịch của lịch sử. Nơi đây chúng ta sẽ giới thiệu một số điểm trong tuyển tập.
Khi đọc được khoảng một phần ba quyển hồi ký “Việt Nam của con – Việt Nam của cha”, trong tôi thôi thúc mãnh liệt một suy nghĩ: đã đến lúc tôi cũng nên ngồi xuống để viết một quyển sách của chính mình trước khi quá trễ, hay nói đúng hơn là trước khi đầu óc tôi bắt đầu quên lãng nhiều cột mốc, nhiều câu chuyện, đặc biệt là nhiều cảm xúc đã từng có trong tôi, từng xảy ra trong đời tôi, kể từ lúc đặt chân đến đất nước này, nơi vừa gần gũi lại vừa lạ lẫm với tôi cho đến tận bây giờ.
“Việt Nam Của Con, Việt Nam Của Cha” (nguyên bản ‘My Vietnam, Your Vietnam’) không chỉ là tự truyện của cha và con, kể lại hành trình đi tìm nguồn cội của tác giả, Christina Võ, mà còn là cách cô “hòa giải” – chữa lành vết thương giữa hai thế hệ – giữa cô và người cha, ông Nghĩa Võ, một bác sĩ quân y VNCH, cũng là đồng tác giả.
Không rõ do một cơ duyên nào mà ba người ấy – ba nhà thơ nữ, ba tâm hồn, ba định mệnh, ba trải nghiệm, ba cuộc đời, ba ngọn suối nguồn thơ ca lại rủ nhau về hợp lưu tụ hội trong một tuyển thơ đặc sắc, hiếm có...
Tác giả của cuốn sách này, Bác sĩ Ngô Thế Vinh, là một trong những nhân vật hàng đầu trong đời sống văn học ở Nam Việt Nam trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, và đã từng quen biết với tất cả những nhân vật mà ông phác thảo. Bác sĩ Vinh là bác sĩ chuyên ngành nội khoa tại một Trung Tâm Y Khoa Long Beach, Nam California. Ông cũng là một tác giả không biết mỏi mệt, với các tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, các sách bình luận văn hóa (như cuốn này) và các bài tường trình khảo sát. Đặc biệt, ông đã đích thân thực hiện chuyến đi điền dã theo suốt chiều dài 4.800 km của sông Mekong và đã viết hai cuốn sách nói về sự tồn vong của con sông này, một con sông lớn của thế giới và là mạch sống của hơn 70 triệu người sống dọc theo hai bờ con sông và nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.