Hôm nay,  

Ngày Của Mẹ

09/05/202500:00:00(Xem: 277)

Nơi ẩn náu yên ổn nhất là lòng mẹ.
Nơi ẩn náu yên ổn nhất là lòng mẹ.

           

Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v.,  nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha.

                   

Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.

           

Có những người con trưởng thành, tốt nghiệp đại học, tiếp tục học cao học, mà mỗi khi có việc gì không hài lòng cũng cứ gọi mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ ơi. Ngay cả khi những người con thành tài, là bác sĩ, kỹ sư, luật sư, dược sĩ mà cũng gọi mẹ ơi, mẹ ơi, gọi ới ời như con nít khi gặp mẹ.

           

Tiếng gọi "mẹ ơi, mẹ ơi" ngọt ngào, ấm áp như không bao giờ chấm dứt, vì thế suốt đời tiếng "mẹ ơi" không bao giờ quên được. Nếu chẳng may người mẹ qua đời thì người con sẽ hụt hẫng như mất một cái gì vĩ đại nhất, không còn muốn sống nữa. Hạnh phúc thay những người còn mẹ, không ai thay thế được mẹ của mình.

  

Nuôi con mẹ chẳng thở than,
Mong sao con được bình an tháng ngày.

           

Có nhiều đứa trẻ chẳng may mẹ mất sớm, cha tái giá, người mẹ kế tốt bụng chăm sóc con chồng như chính con ruột của mình. Đứa trẻ cũng thương mẹ kế nhưng làm sao bằng mẹ ruột của mình.

           

Lâu lắm rồi, chúng tôi đọc truyện về một người phụ nữ di tản, đi tị nạn Cộng Sản, lạc đến đảo, người mẹ bồng đứa con trên tay ngồi trên một tảng đá. Hai mẹ con mấy ngày không có một hạt cơm trong bụng, đứa trẻ khóc vì đói, vì khát. Người mẹ đau lòng bèn cắt tay mình để lấy máu cho vào miệng con. Cứu sống được đứa con thì người mẹ kiệt sức qua đời trong khi chờ đoàn cứu trợ đem thực phẩm tới. Khi đọc truyện này, ai cũng rơi lệ. Người mẹ hy sinh mạng của mình, chịu chết để cho con được sống. Hy sinh nào vĩ đại bằng hy sinh mạng sống của mình? Nhiều người mẹ hy sinh cuộc đời của mình để con được sống.

           

Mẹ ơi, mẹ ơi, bao giờ con gặp lại mẹ. Mẹ tôi qua đời năm 1966 nhưng tôi nghĩ mẹ tôi vẫn còn ở đây. Vào chùa nào, tôi cũng nghĩ mẹ tôi đang ở trong chùa, đang nhìn chúng tôi cười. Nhất là đến "Ngày của Mẹ", mỗi lần nhìn thấy các cụ già giống mẹ tôi được con cháu dìu đi vào chánh điện, sao tôi thấy hạnh phúc cho những người còn cầm tay mẹ mình. Sao họ hạnh phúc, sao mình không được phúc đức như thế? Phải tu nhân tích đức thì mới được như thế, mới còn mẹ.

           

Kỷ niệm về mẹ tôi nhiều lắm. Ở Việt Nam, chúng tôi sống trong ngôi nhà rộng, đất rộng. Nhà đầu tiên được xây trên đất của ông nội chúng tôi để lại. Sau này, ba mẹ tôi mua một miếng đất khác rộng rồi xây nhà. Xung quanh là cây xanh, yên tĩnh, chúng tôi lớn lên trong ngôi nhà này, bình yên và hạnh phúc, ngôi nhà có tiếng cười suốt ngày.

           

Nhà chúng tôi nuôi nhiều chó, có những con chó thật to, chó giữ nhà, chó thương chủ nhà, chó đưa chủ nhà ra tận cổng khi chủ nhà đi chợ hay đi đâu đó, chó đón chủ nhà trở về. Có một điều rất lạ mà chúng tôi không hiểu nổi khi thấy một đàn chó chạy ra cổng mừng rỡ đón chủ nhà trở về mà không có tiếng sủa, nhưng nếu có người lạ đến là chó cất tiếng sủa rất to, mẹ tôi chỉ cần lên tiếng: "Các con vô nhà" thì chúng nghe lời ngay, vô nhà im phăng phắc?

me

Thân Mẫu của Kiều Mỹ Duyên và cô Hoàng Minh Thúy, chủ báo Xây Dựng, Houston.

            

Mẹ tôi thường cúng Phật ở nhà, trên bàn thờ lúc nào cũng có trái cây tươi, hoa tươi và nước lọc.Trái cây ngoài vườn, hoa ngoài vườn hái đem vào cúng Phật. Mẹ tôi thường đi chùa đem trái cây, hoa quả cúng Phật, mẹ tôi cũng làm công quả ở chùa. Mẹ tôi là Phật tử thuận thành, mẹ tôi cầu nguyện mỗi ngày, cầu nguyện cho gia đình, cho người thân và cầu nguyện cho người nghèo, mẹ tôi ăn chay vào ngày rằm, ngày lễ.

          

Nhiều lúc chúng tôi nghĩ không biết bây giờ mẹ chúng tôi ở đâu? Mẹ tôi có hạnh phúc hay không? Mẹ tôi ra đi không phiền muộn, ra đi một cách nhẹ nhàng, thanh thản thì chắc mẹ đang hạnh phúc lắm ở cõi Niết Bàn.

          

Không có người mẹ nào thích chiến tranh, bởi vì có chiến tranh thì phải có những chàng trai trẻ lên đường nhập ngũ, tòng quân, thì có chiến tranh làm gì chứ? Em trai tôi đi lính, đêm đêm, mẹ tôi quỳ dưới bàn thiên ngoài trời cầu nguyện cho con mình bình yên trở về. Ra chiến trường giữa bom đạn, chắc gì trở về còn đủ chân tay?

           

Không ai bảo đảm khi lao vào nơi bom đạn mà còn lành lặn tay chân trở về? Có bao nhiêu con, cháu của tỉ phú mà ra chiến trường, cũng là mạng người nhưng con người giàu có mấy người ra chiến tuyến? Ở đời này, tìm sự công bình cho người nghèo có được không?

           

Mẹ ơi, mẹ ơi, chúng con thương mẹ lắm, nhưng bây giờ mẹ ở nơi nào? Mẹ có linh thiêng về đây chứng giám, chúng con làm từ thiện một phần hồi hướng công đức dành cho mẹ. Chúng con hy vọng mẹ đã siêu thoát và về Cõi Niết Bàn. Chúng con nghĩ đến mẹ và thương mẹ nhiều lắm, nhờ có mẹ, chúng con có được hạnh phúc này. Mẹ ơi, chúng con thương mẹ lắm. Mẹ là tất cả, mẹ là Bồ Tát, mẹ là thiên thần, là tình thương bao la, là những gì cao quý nhất trên đời này.

           

Mẹ ơi, bây giờ con không còn mẹ. Mẹ ở đâu, xin một lần mẹ cho chúng con được nhìn thấy mẹ. Nhớ nụ cười thật tươi của mẹ, nhớ bàn tay ấm áp của mẹ dịu dàng đặt trên trán của chúng con khi chúng con bị cảm sốt. Mẹ ơi, mẹ ơi, con nhớ mẹ!

Đừng bao giờ chờ đến khi Mẹ không còn nữa mới nói những lời yêu thương chân thành dành cho Mẹ. Hãy hiếu thảo với Mẹ cho

 

Đừng bao giờ chờ đến khi Mẹ không còn nữa mới nói những lời yêu thương chân thành dành cho Mẹ. Hãy hiếu thảo với Mẹ cho tròn phận con.

           

Mẹ ơi, mẹ ơi, dù con gọi mẹ mỗi ngày nhưng mẹ của chúng con đã đi xa, không bao giờ trở lại. Một đời người, dù có sống lâu trên 100 tuổi cũng phải ra đi và đi không bao giờ trở lại. Mẹ ơi, mẹ ơi, dù tiếng gọi của con có ngọt ngào, có thảm thiết cỡ nào thì mẹ cũng xa con rồi.

           

Mẹ ơi, mẹ ơi! Con nhớ Mẹ nhiều lắm!

  

Orange County, 11/5/2025

KIỀU MỸ DUYÊN

(kieumyduyen1@yahoo.com)

  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”
Bạn tắt hết điện thoại, truyền hình, bạn gập lại các quyển sách đang đọc. Bạn ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, khóa kín cửa, hay bạn ngồi trên một tảng đá trong rừng, hay bạn ngồi giữa chợ, điều ấy không quan trọng. Bạn không cần phải thực hành bất kì một lễ nghi tôn giáo, yoga hay thiền nào cả.
Một trong những thành tựu quan trọng đáng tự hào của cộng đồng người Việt là sự thành công của những cây bút người Mỹ gốc Việt, kể câu chuyện Việt góp phần vào nền văn học lưu vong Việt Nam cũng như góp mặt vào dòng văn học chính Hoa Kỳ. Bài giới thiệu sách này thuộc loạt bài giới thiệu các tác giả, tác phẩm thuộc dòng văn học thế hệ thứ nhất-thứ hai, trong thời điểm 50 Năm Nhìn Lại, từ biến cố tháng Tư, 1975.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.