Hôm nay,  

Năm Mươi Năm Nhìn Lại Việt Nam: Nửa Thế Kỷ Tụt Hậu!

25/04/202500:22:00(Xem: 4005)

Hinh-lớn-4-cột-trang-nhất_Ann-Phong.-Looking-Back-Looking-Forward.-48x74
50 Năm Nhìn Lại và Hướng Tới – Tranh họa sĩ Ann Phong
"Looking Back, Looking Forward" hiện đang được trưng bày ở Cal State U Dominguez Hills Asian & Pacific Culture Center.
Lễ khai mạc tranh sẽ diễn lúc 3pm, April 30th.
Cal State University Dominguez Hills, Welch Hall Courtyard.
1000 E. Victoria Street. Carson CA 90747. 
 
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.”  Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được.

Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng, gieo vào tôi trạng thái hoang mang và cay đắng…”(1)

Bà Dương Thu Hương khóc vì biết rằng cả thế hệ thanh niên nam nữ của bà ở Miền Bắc đã bị Đảng CSVN lừa dối qua tuyên truyền rằng giải phóng Miền Nam là để cứu đồng bào bị đói khát lầm than! Nhưng năm mươi năm sau chính Tổng Bí Thư Đảng CSVN Tô Lâm đã chứng nhận điều bà Dương Thu Hương nói, bởi vì ngày 13 tháng 2 năm 2025 ông “đã thừa nhận sự phát triển vượt bậc của Sài Gòn trước năm 1975, khi ông so sánh y tế Singapore với Việt Nam thời đó: “Nhìn sang Singapore, xưa họ nói được sang Bệnh Viện Chợ Rẫy chữa bệnh là mơ ước. 50 năm nhìn lại, giờ mình lại mơ sang họ khám bệnh.”(2) Khi phát biểu như thế chẳng khác nào ông Tô Lâm mặc nhiên thừa nhận rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN trong nửa thế kỷ qua Việt Nam đã đi thụt lùi trên dòng vận hành của bánh xe lịch sử dân tộc.

Một đứa bé sinh ra vào năm 1975 thì bây giờ đã trở thành một gã trung niên đang bước dần đến ngưỡng cửa của tuổi lục tuần lão niên! Có thể nói đó là thời gian hơn nửa đời người, với biết bao được mất hơn thua, biết bao khổ vui thành bại. Đoạn đường lịch sử nửa thế kỷ của một quốc gia, một dân tộc ắt hẳn còn nhiều thăng trầm, bi hài kịch hơn nữa! Nhân dịp tưởng niệm 50 năm sau biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975 và cũng là 50 năm người Việt tị nạn CS có mặt tại Hoa Kỳ, chúng ta hãy nhìn lại một chặng đường lịch sử nửa thế kỷ có nhiều biến động nhất của dân tộc và đất nước Việt Nam.
 
Đối xử với dân như kẻ thù
 
Trong bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư do sử gia Ngô Sĩ Liên và nhiều người biên soạn vào thời Hậu Lê (1428-1789) viết về lòng nhân đạo và thuật thống nhất lòng dân sau chiến tranh của Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) rằng: “Trước kia khi người Nguyên vào cướp, vương hầu quan liêu phần nhiều đến dinh xin qui phục. Đến khi giặc thua, bắt được một hòm các tờ biểu xin đầu hàng, Thượng hoàng sai đốt đi để yên lòng kẻ phản trắc.”(3)

Sử gia Lê Mạnh Thát nhận định rằng, “Sự kiện đây chứng tỏ một đường lối chính trị nhân đạo để ổn định đất nước sau chiến tranh, làm cho mọi người cảm thấy yên tâm lao động xây dựng đất nước.”

Đó chính là cách điển hình về sự hòa giải dân tộc có ý nghĩa và hiệu quả mà đã làm cho đất nước Đại Việt thời nhà Trần có thể vực dậy được mạnh mẽ sau 2 cuộc chiến tranh vệ quốc dũng cảm đánh đuổi quân Nguyên-Mông xâm lược.

Nhưng, chính quyền CSVN đã hoàn toàn làm ngược lại bằng cách sử dụng những chính sách trả thù người dân sau khi chiếm Miền Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Cuộc chiến Việt Nam mà theo phỏng đoán chính thức từ phía chính quyền CSVN vào năm 1995 thì có tới 2 triệu thường dân ở cả hai miền Nam và Bắc thiệt mạng cùng với khoảng 1.1 triệu binh sĩ Nam và Bắc Việt Nam tử trận. Theo phỏng đoán từ phía quân đội Hoa Kỳ thì có khoảng từ 200,000 đến 250,000 binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa tử trận trong chiến tranh. Về phía Hoa Kỳ thì có 58,200 binh sĩ Mỹ chết và mất tích trong chiến tranh Việt Nam.(4)
Cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm tại Việt Nam vốn đã bi thảm như thế! Sau khi cuộc chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 những tưởng toàn dân tộc đã có thể sống bình yên để chữa lành những vết thương và xây dựng lại đất nước đổ vỡ, nào ngờ những tai vạ khác lại đổ ập lên đầu người dân Miền Nam. Đó là chiến dịch trả thù dân qua các nhà tù cải tạo, đổi tiền và xua dân lên vùng kinh tế mới.

Bỏ tù văn nghệ sĩ, quân dân cán chính VNCH: Theo các tài liệu,(5) chính quyền CSVN từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã đẩy từ nửa triệu tới một triệu người gồm các sĩ quan và viên chức chính phủ Việt Nam Cộng Hòa vào các “trại học tập cải tạo,” mà thực chất là các nhà tù khổ sai trên khắp đất nước. Ngoài ra, theo Ginetta Sagan và Stephen Denney,(6) thì chính quyền CSVN vào tháng 6 năm 1975 đã bắt gần 400 nhà văn, nhà thơ và nhà báo, và hơn 2,000 các nhà lãnh đạo tôn giáo, gồm 194 tuyên úy Phật Giáo, Công Giáo và Tin Lành, và 516 linh mục Công Giáo.

Theo nhà bình luận văn học Nguyễn Hưng Quốc viết trong bài “Số Phận Của Văn Học Miền Nam Sau 1975” được đăng trên www.voatiengviet.com vào ngày 28 tháng 11 năm 2014 rằng, “Năm 1978, sau nhiều năm tháng điều tra, tạp chí Quê Mẹ tại Paris đã công bố bản danh sách 163 văn nghệ sĩ miền Nam bị cộng sản giam giữ trong các trại cải tạo. Báo Express số ra ngày 12.8.1978, đã đăng tải đầy đủ tên tuổi 130 văn nghệ sĩ trong số 163 văn nghệ sĩ nạn nhân của chính sách trả thù của cộng sản. Ngày 30.4.1980, trong một cuộc họp báo tại Paris, tạp chí Quê Mẹ lại cung cấp thêm danh sách 40 văn nghệ sĩ mới bị bắt hoặc bị bắt lại trong năm 1980.”(7)

Chi tiết hơn về giới văn nghệ sĩ Miền Nam dưới chế độ CSVN sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhà văn Ngô Thế Vinh viết trong bài “Những Tháng Ngày Của Giới Văn Nghệ Sĩ, Sau Khi Miền Nam Sụp Đổ”(8) rằng, “Sau 1975, nhiều nhà văn nhà báo miền Nam ấy đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương. Nếu còn sống sót, đều nhất loạt phải gác bút: Dương Nghiễm Mậu sống bằng nghề sơn mài, Lê Xuyên ngồi bán thuốc lá lẻ ở đầu đường, Trần Lê Nguyễn tác giả kịch Bão Thời Đại thì phải đứng sạp bán báo để độ nhật, Nguyễn Mộng Giác tác giả Đường Một Chiều thì làm công nhân sản xuất mì sợi, Trần Hoài Thư tác giả Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi thì ba năm ở tù ra trở thành Người Bán Cà Rem Dạo.”

Mô tả cuộc sống trong các trại tù cải tạo của CSVN, Robert S. McKelvey, trong tác phẩm “A Gift of Barbed Wire – America’s Allies Abandoned in South Vietnam” [Tặng Vật Cuộn Dây Thép Gai - Những Đồng Minh Của Mỹ Bị Bỏ Rơi Tại Miền Nam Việt Nam], xuất bản năm 2002, kể rằng, “Đây là kinh nghiệm đầu tiên của tôi với cựu tù chính trị Việt Nam và gia đình của họ. Tôi đã từng không biết rằng sau khi Sài Gòn sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, hơn một triệu người là cựu đồng minh Nam Việt Nam của chúng ta, trong số hai mươi triệu dân, đã bị đẩy vào các trại học tập cải tạo. Ở đó họ bị bắt buộc đào hào và kênh dẫn nước, trồng trọt, và xây nhà làm đường. Họ được nuôi bằng những khẩu phần chết đói – hai chén cơm, một ít muối, và một chút xíu canh cải mỗi ngày. Vào ban đêm, sau một ngày làm việc cực nhọc, họ bị lên lớp về những lỗi lầm của chính quyền cũ và người Mỹ, về các lý thuyết Mác-Lê, và về những vinh quang của chế độ Cộng Sản mới, được mô tả bởi những cai tù như là “chính quyền tốt nhất thế giới.” Họ cũng bị đòi hỏi phải thú tội về những tội ác quá khứ của họ như là một phần của quá trình học tập cải tạo để lấy cớ là sẽ “chuyển” họ thành “người mới.” Điều đó đã không được tiết lộ với họ cho đến về sau mà những thú tội này tạo thành cơ bản cho những buộc tội thêm nữa để chống lại họ và ngay cả bỏ tù họ lâu hơn.

“Cuối cùng được thả từ những trại học tập cải tạo sau khi đã bị bỏ tù từ một tới hơn hai mươi năm, các cựu tù nhân trở về nhà như những người đàn ông chỉ còn da bọc xương. Họ kiệt sức, bệnh tật, và chán ngán sâu sắc chính quyền mới và những ý định thực sự của nó.”

Những người tù dưới chế độ CS thời đó mà còn được sống sót để trở về nhà là may mắn hơn nhiều so với khoảng 200,000 người đã chết trong tù.(9)
Đổi tiền và tịch thu tài sản của dân: Song song với chiến dịch bỏ tù dân quân cán chính và văn nghệ sĩ thuộc chính phủ VNCH, chính quyền CSVN cũng tiến hành chiến dịch đổi tiền để bần cùng hóa nhân dân và từ đó dùng chính sách kinh tế tập trung để kiểm soát bao tử của dân. Chiến dịch đổi tiền được thực hiện 3 đợt, theo https://vi.wikipedia.org:

-          Đợt 1: Từ 2 giờ sáng đến 11 giờ đêm ngày 22 tháng 9 năm 1975. Theo đó, từ Quảng Nam, Đà Nẵng vào Nam thì hối suất là 500 đồng VNCH đổi được 1 đồng Cộng Hòa Miền Nam VN. Từ Thừa Thiên Huế ra Bắc thì hối suất là 1000 đồng VNCH đổi được 3 đồng tiền CHMNVN.

-          Đợt 2: Ngày 3 tháng 5 năm 1978. Theo đó, từ sông Bến Hải trở ra Bắc thì 1 đồng mới trị giá bằng 1 đồng cũ. Từ sông Bến Hải trở vào Nam 1 đồng mới bằng 0,80 đồng cũ.

-          Đợt 3: Ngày 14 tháng 9 năm 1985. Theo đó, mỗi hộ chỉ được đổi 20.000 đồng cũ lấy 2.000 đồng mới; hộ độc thân chỉ được đổi 15.000 đồng cũ lấy 1.500 đồng mới; hộ kinh doanh thì được đổi 50.000 đồng cũ lấy 5.000 đồng mới.

Ngoài chiến dịch đổi tiền để tịch thu tiền bạc của dân, chính quyền CSVN còn thực hiện nhiều chiến dịch “đánh tư sản mại bản.” Theo nhà sử học Trần Gia Phụng,(10) vào ngày 10 tháng 9 năm 1975, chính quyền CSVN đã mở chiến dịch đánh “tư sản mại bản” nhắm vào các nhà đại tư bản chuyên xuất nhập cảng và làm ăn buôn bán với người ngoại quốc trước năm 1975. Cũng theo Trần Gia Phụng, đợt đánh “tư sản mại bản” của chính quyền CSVN lần thứ 2 bắt đầu vào ngày 4 tháng 12 năm 1975 nhắm vào các nhà tư bản nhỏ hơn nhưng vẫn còn giàu có. Vào đầu năm 1978, Đỗ Mười lãnh đạo chiến dịch đánh “tư sản dân tộc” có tên là “công tư hợp doanh” bắt buộc các công ty tư nhân phải vào quốc doanh mới được làm ăn buôn bán. Cũng theo Trần Gia Phụng, ở nông thôn thì chính quyền CSVN quốc hữu hóa toàn bộ đất đai và tất cả nông dân phải vào hợp tác xã nông nghiệp do chính quyền quản trị.

Xua dân đi vùng kinh tế mới:  Chiến dịch tiếp theo mà chính quyền CSVN thực hiện để trả thù người dân Miền Nam là xua dân thành thị đi vùng kinh tế mới. Về vấn đề này, Giáo Sư Nguyễn Văn Canh đã nhận định rằng, “Sau năm 1975 ngoài lý do kinh tế, việc di dân ra vùng kinh tế mới còn có chủ ý chính trị để giảm số người thuộc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tập trung ở những đô thị, nhất là vùng Sài Gòn để dễ kiểm soát phần tử chống đối.”(11) Ông còn cho biết thêm rằng để cưỡng bức dân thành phố đi kinh tế mới chính quyền CSVN đã tịch thu hộ khẩu, lấy lại thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, cấm trẻ em đi học.

Theo tác giả Lâm Văn Bé trong tác phẩm “Những Biến Động Dân Số Việt Nam,”(12) tính từ năm 1976 đến 2000 chính quyền CSVN đã đẩy khoảng 5 triệu dân từ thành thị lên các vùng kinh tế mới. Riêng tại Sài Gòn đã có khoảng 832,000 người bị đẩy đi vùng kinh tế mới.(13)

Một chính quyền đối xử với người dân như với kẻ thù như vậy thì làm sao người dân có thể sống nổi. Cho nên việc bỏ nước ra đi là điều tất nhiên.
 
Bỏ nước ra đi

Hình nhỏ trang nhất_50 nam nhin lai VN 01

35 người tị nạn Việt Nam bằng đường biển chờ được vớt lên tàu chỉ huy đổ bộ Hoa Kỳ USS Blue Ridge vào ngày 15 tháng 5 năm 1984. Họ được cứu trên một chiếc thuyền đánh cá dài hơn 10 mét cách Vịnh Cam Ranh của Việt Nam về hướng đông bắc 350 dặm, sau khi ở trên biển 8 ngày.(Photo: https://en.wikipedia.org)

 
Ngày 23 tháng 5 năm 1975, Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford đã ký ban hành Đạo Luật Indochina Migration and Refugee Assistance Act [Đạo Luật Trợ Giúp Di Dân Và Tị Nạn Đông Dương] để tài trợ 455 triệu đô la trong nỗ lực cung cấp việc chuyên chở, chăm sóc sức khỏe và chỗ ăn ở cho 130,000 người tị nạn từ Việt Nam, Cam Bốt và Lào, mà trong đó có khoảng 125,000 người Việt tị nạn trong đợt đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.(14)

Sau khi rời Việt Nam, những người tị nạn trước hết đến các trại tiếp nhận ở Phi Luật Tân và Đảo Guam trước khi được chuyển tới khu vực ở tạm thời tại các căn cứ quân sự Hoa Kỳ, gồm Camp Pendleton (California), Fort Chaffee (Arkansas), Eglin Air Force Base (Florida), và Fort Indiantown Gap (Pennsylvania). Sau những chuẩn bị để tái định cư, họ được giao cho các cơ quan thiện nguyện có nhiệm vụ cung cấp sự trợ giúp trong việc bảo đảm hỗ trợ tài chánh và cá nhân từ những nhà bảo trợ tại Hoa Kỳ.

Nhưng đó là những người Việt tị nạn đầu tiên đến Mỹ bằng đường thủy và hàng không do quân đội Hoa Kỳ giúp đỡ. Còn ai là người Việt đầu tiên vượt biển đến bến bờ tự do thành công?

Trong bài viết “Last Vietnamese boat refugee leaves Malaysia” [Thuyền Nhân Việt Nam Cuối Cùng Rời Mã Lai],(15) Bram Steenhuisen cho biết rằng vào tháng 5 năm 1975, nơi bờ biển của Mã Lai (Malaysia) đã chứng kiến chiếc thuyền bị thời tiết làm hư hại lần đầu tiên cập bến chở theo 47 người đến từ Việt Nam. Họ là những người đầu tiên được gọi là “thuyền nhân” trong số hàng trăm ngàn người tị lạn vượt biên, vượt biển đến các lân bang sau khi CSVN chiếm Miền Nam Việt Nam.

Cũng theo Bram Steenhuisen, Doan Van Viet, 43 tuổi là người tị nạn Việt Nam sau cùng còn ở lại Mã Lai trong số hơn 250,000 người tị nạn Việt Nam đã vượt biển đến nước này. Ông Đoàn đến Đảo Pulau Bidong của Mã lai vào năm 1984 lúc đó ông mới có 22 tuổi. Ông vượt biển từ thành phố Châu Thành, tỉnh Đồng Nai với người anh. Khi trại tị nạn Pulau Bidong đóng cửa vào năm 1990, ông dời qua trại Sungai Besi trong đất liền của Mã Lai. Đến năm 1996, trại này cũng đóng cửa và ông đã phải hòa nhập vào cuộc sống của người dân Mã Lai địa phương bên ngoài trại. Hai mươi năm sau khi rời bỏ Việt Nam, ông Đoàn cuối cùng đã trở về quê hương với người bạn gái đính hôn và được người đại diện của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc tại Mã Lai là Volker Türk đón tiếp.

Theo Nghia M. Vo, trong tác phẩm “The Vietnamese Boat People 1954 and 1975-1992” được McFarland xuất bản năm 2006, cho biết từ năm 1975 đến 1995 có khoảng 800,000 thuyền nhân Việt Nam đã đến được an toàn tại các nước khác. Nhưng theo thống kê của Cao Ủy Tị Nạn Liên Liệp Quốc (UNHCR) từ năm 1975 đến 1997 có 839,228 người Việt tị nạn đã đến các trại thuộc Cao Ủy Tị Nạn LHQ ở Đông Nam Á và Hồng Kông. Hầu hết đều đi bằng thuyền, nhưng có 42,918 người vượt biên đường bộ đến Thái Lan. 749,929 người được định cư ở nước ngoài. 109,322 người đã hồi hương do tự nguyện hay không tự nguyện. Số thuyền nhân Việt Nam còn lại ở trại tị nạn vào năm 1997 là 2,288 người mà trong đó có 2,069 người ở Hồng Kông. 4 nước nhận định cư thuyền nhân và bộ nhân Việt Nam nhiều nhất là Hoa Kỳ với 402,382 người; Pháp với 120,403 người; Úc với 108,808 người; và Canada với 100,012 người.(16)

Cao Ủy Tị Nạn LHQ cũng cho biết rằng có từ 200,000 đến 400,000 người Việt vượt biển tìm tự do đã chết trên biển. 
 
Cộng đồng người Việt ở Mỹ
 
Trong số 130,000 người Việt tị nạn đến Mỹ đầu tiên sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 có khoảng 50,000 người được đưa tới Căn Cứ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ Camp Pendleton, nằm trong địa hạt Quận San Diego, sát cạnh phía Nam của Quận Cam, Miền Nam California. Chính những người Việt tị nạn này sau đó đã định cư tại Quận Cam để bắt đầu cuộc sống mới ở Mỹ bằng công việc làm trong kỹ nghệ quốc phòng và kỹ thuật cao, hoặc trong các doanh nghiệp nhỏ.(17)

Cộng đồng người Việt ở Mỹ tính đến nay bao gồm: những người Việt bỏ nước ra đi tìm tự do bằng đường biển và đường bộ (gọi là thuyền nhân và bộ nhân) từ năm 1975 đến năm 1990 là năm đóng cửa các trại tị nạn ở Đông Nam Á và Châu Á; những người đến định cư ở Mỹ theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997). Chương trình ODP và HO đã đưa 623,509 người Việt đi định cư các nước, mà trong đó có 458,367 người đến Mỹ, theo https://en.wikipedia.org. Dĩ nhiên, số người Việt còn tiếp tục đến định cư ở Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình, kinh doanh, tôn giáo, v.v…

Theo Jeanne Batalova,(18) tính tới năm 2023, có gần 2.4 triệu người Việt định cư ở Mỹ. Cộng đồng người Việt ở Mỹ tập trung đông nhất tại California với 38% tổng dân số người Việt ở Mỹ, kế đến là Texas với 14%, tiểu bang Washington với 5%, tính tới năm 2021. Các tiểu bang Florida, Virginia, Georgia, và Massachusetts mỗi nơi có 3% hay 4% trong tổng số người Việt ở Mỹ. 4 quận có người Việt sinh sống đông nhất ở Mỹ, chiếm 31% tổng số dân Việt ở Mỹ, là Quận Cam, Santa Clara và Los Angeles thuộc California, và quận Harris thuộc Texas.

Người Việt tị nạn tại Quận Cam sau đó đã hình thành Little Saigon được xem là thủ phủ của người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ. Little Saigon được Hội Đồng Thành Phố Westminster chính thức đặt tên vào cuối thập niên 1980s lấy Đường Bolsa khúc từ đường Magnolia đến đường Euclid làm trục lộ chính vì đây là khu vực trung tâm thương mại sầm uất của người Việt tị nạn. Về sau này khi dân số người Việt ngày càng đông thì vùng Little Sagon đã bao gồm nhiều thành phố như Westminster, Garden Grove, Santa Ana, Fountain Valley, Stanton, Hungtinton Beach, theo Merrill Balassone trong bài viết “The heart of Little Saigon beats strong,” được đăng trên báo Los Angeles Times vào ngày 23 tháng 10 năm 2005 cho biết.

50 nam nhin lai VN 02

Đoàn diễn hành của Trường High School Army trong Diễn Hành Tết 2024 trên Đường Bolsa, thành phố Westminster, California.(www.vietbao.com)

Về trình độ học vấn, tính tới năm 2022, có 29% người Việt di cư ở Mỹ có bằng cử nhân hay cao hơn, so với 36% người sinh ở Mỹ và 35% tất cả người di cư lớn tuổi. Về thu nhập và tài sản, người Việt ở Mỹ có khuynh hướng thu nhập cao hơn dân số người Mỹ bản địa và người ngoại quốc ở Mỹ. Tính tới năm 2022, thu nhập của hộ người Việt di cư trung bình là $81,000/năm so với $75,000/năm của hộ tất cả người di cư và sinh ở Mỹ, theo Jeanne Batalova.


50 nam nhin lai VN 03

Quang cảnh đồng hương tham dự văn nghệ tại Làng Việt Nam trong Hội Chợ Tết 2024 do Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam Miền Nam California tổ chức tại OC Fair & Event Center, Miền Nam California.(www.vietbao.com)

Cộng đồng người Việt tị nạn CS ở Mỹ là những người không chấp nhận sự cai trị độc tài, độc đảng của CSVN mà đã bỏ nước ra đi nên có cùng lập trường chống Cộng Sản Việt Nam. Theo thăm dò của báo Orange County Register vào năm 2000 thì có tới 71% người Việt tị nạn xem việc chống chủ nghĩa Cộng Sản là ưu tiên hàng đầu.(19) Điển hình là vụ Trần Trường, chủ tiệm cho thuê video trên đường Bolsa tại thành phố Westminster, Quận Cam đã treo cờ CSVN và hình HCM trong tiệm vào năm 1999 đã đưa tới cuộc biểu tình chống đối của hàng chục ngàn người Việt tị nạn trong suốt hơn 50 ngày. Một điều đáng chú ý khác là tính tới năm 2023 qua sự vận động của cộng đồng người Việt tị nạn tại Mỹ đã đưa tới việc 20 tiểu bang, 15 quận hạt và 85 thành phố tại Hoa Kỳ công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH là biểu tượng của cộng đồng người Việt di cư.(20)
 
Mở kinh tế, đóng chính trị, siết tự do và nhân quyền
 
Mười năm say máu chiến thắng, Đảng CSVN đã tiến hành việc quốc hữu hóa đất đai và tài sản của toàn dân để biến người dân thành kẻ nô lệ ngay trên chính mảnh đất của cha ông để lại. Cùng lúc họ thực hiện các chính sách đổi tiền, kinh tế mới, hợp tác xã đã làm cho nền kinh tế VN lâm vào tình trạng kiệt quệ. Dân đói khát, đất nước tụt hậu, tương lai đen tối. Lại thêm việc CSVN xâm lăng Cam Bốt xóa sổ Khờ Me Đỏ vào cuối năm 1978 đã khiến cho Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc căm hận vì đồng chí phản bội nên “dạy cho Việt Nam một bài học” khi xua quân tấn công 6 tỉnh dọc theo biên giới Việt-Trung vào tháng 2 năm 1979 càng làm cho tình hình kinh tế, chính trị và an ninh của Việt Nam lâm vào bế tắc.

Để cứu đảng khỏi nạn diệt vong vì đẩy dân vào thế cùng thì ắt sẽ biến loạn, Đại Hội Đảng CSVN lần thứ 6 vào tháng 12 năm 1986 dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh (1915-1998) đã thay đổi chính sách gọi là “đổi mới” để chuyển sang “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.”

Năm 1989, Hà Nội đã rút quân khỏi Cam Bốt để được gia nhập vào các định chế quốc tế như World Bank, International Monetary Fund (IMF) và the Association of South-East Asian Nations (ASEAN). Từ đây Hà Nội có thể nhận được các viện trợ ngoại quốc và giao thương với các nước. Để gỡ thế bí từ phía Bắc, Hà Nội buộc phải thay đổi lập trường với Trung Quốc từ thù địch sang bang giao và bình thường hóa quan hệ hai đảng, hai nước trong cuộc họp tại Thành Đô của tỉnh Tứ Xuyên vào tháng 9 năm 1990. Tháng 7 năm 1995, Việt Nam thiết lập bang giao với cựu thù Hoa Kỳ vì được Washington gỡ bỏ cấm vận thương mại.

Theo Jennifer Llewellyn và Steve Thompson,(21) những năm gần đây, Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Việt Nam đã trở thành nước xuất cảng nông phẩm quan trọng, nhà sản xuất dầu hỏa lớn thứ 3 tại Châu Á, và nhà sản xuất quần áo, hàng dệt may và các bộ phận máy điện toán. Ngày nay Việt Nam là đối tác thương mại lớn của Trung Quốc, Nhật, Nam Hàn, Đài Loan và Hoa Kỳ. Nhưng, cũng theo Jennifer Llewellyn và Steve Thompson, Việt Nam vẫn còn đối diện với tình trạng chênh lệch thái quá giữa giàu và nghèo. Các cán bộ và giới doanh gia dựa thế vào chính quyền đã bòn rút của cải nhà nước để làm giàu cho bản thân và phe nhóm, trong khi dân nghèo vẫn không được quan tâm nâng đỡ. Tham nhũng là quốc nạn làm cản trở sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Dù trong những năm gần đây Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng (1944-2024) đã quyết tâm bài trừ tham nhũng để cứu đảng, nhưng bệnh tham nhũng đã ăn sâu vào xương tủy của chế độ và lan tràn khắp xã hội nên không dễ dàng để trị dứt.

Nhận định về tình hình Việt Nam sau 50 năm chấm dứt chiến tranh, nhà văn người Bỉ Staf Henderickx đã viết rằng, “Tuy nhiên, tôi hoàn toàn không muốn vẽ nên một hình ảnh lý tưởng hóa về Việt Nam ngày nay. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc tồn tại khoảng cách sâu sắc giữa một nhóm nhỏ người siêu giàu và phần lớn dân số. Trong khi 65% dân số vẫn sống ở nông thôn và sống chủ yếu bằng nghề nông, nông thôn vẫn thua kém thành phố về mọi mặt. Về chăm sóc sức khỏe, các bệnh viện nhà nước miễn phí nhưng dịch vụ chăm sóc được cung cấp không đạt tiêu chuẩn. Ở các bệnh viện tư, chất lượng tốt hơn nhiều nhưng hầu hết người Việt Nam đều không đủ khả năng chi trả.”(22)

Theo Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ, (23) nền kinh tế Việt Nam gặp 5 trở ngại mang tính thể chế nên khó phát triển tốt, nếu muốn phát triển đúng mức thì phải cải cách thể chế. 5 trở ngại là: 1) Do ý thức hệ, bởi vì “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” lấy doanh nghiệp nhà nước làm chính, do đó “thu hẹp không gian hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân.” 2)  Do “lũng đoạn của các doanh nghiệp thân hữu.” Doanh nghiệp thân hữu là doanh nghiệp tư có sự hỗ trợ của các cán bộ hay chính quyền, do vậy chỉ làm giàu cho doanh nhân và cán bộ. 3) Nguồn vốn của ngân hàng bị chuyển đến những “doanh nghiệp sân sau của ngân hàng,” do vậy vốn không được sử dụng hiệu quả nhất và doanh nghiệp “cần vốn không có cơ hội.” 4) Nền kinh tế VN hiện nay thiếu lực lượng “công chức chuyên nghiệp và có năng lực” để có khả năng “định hình và triển khai chính sách công nghệp.” 5) “Vì chính quyền địa phương quá nhỏ, họ không có năng lực, nhân lực, và nguồn lực để có thể trợ giúp các doanh nghiệp. Và quan trọng hơn, họ không có nhu cầu để giúp các doanh nghiệp địa phương, khi mà vị trí của họ không được bầu chọn bởi người dân mà là được bổ nhiệm bởi trung ương.”

Về sự trì trệ trong phát triển kinh tế tại Việt Nam hiện nay thì chính ông Tô Lâm, Tổng Bí Thư Đảng CSVN đã nhìn nhận và điều đáng chú ý hơn nữa là ông Tô Lâm còn cho rằng chính chủ nghĩa CS là rào cản cần phải bị phá bỏ để đưa nền kinh tế Việt Nam đi vào con đường kinh tế tư nhân, theo nhà bình luận Dư Lan trong một bài viết đăng trên trang nhà của Đài Á Châu Tự Do (RFA).(24)

“Trong bài viết có tựa đề ‘Phát triển kinh tế tư nhân-đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng’, ông Tô Lâm đã thể hiện tư tưởng ủng hộ kinh tế tư nhân mạnh mẽ. Ông còn thừa nhận rằng “kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, không thể bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh”, ‘gặp nhiều rào cản trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn tín dụng, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao, nhất là trong các ngành công nghệ, kỹ thuật và tài chính’.”

Điều khó tin là sau khi phát biểu về “phát triển kinh tế tư nhân” thì một tuần sau cũng chính ông Tô Lâm xây dựng “Hiệp hội Dữ liệu số Quốc gia,” mà theo bình luận của nhiều nhà quan sát chính trị Việt Nam trong đó có Dư Lan thì đây không khác gì hệ thống “Công an - Tài phiệt trị.”(25) Bài báo của Dư Lan cho rằng “kinh tế tư nhân” nằm trong danh sách của “Hiệp hội Dữ liệu số Quốc gia,” mà cơ quan này thì do Đảng CSVN lập ra nên những tư nhân đó phải là người của chế độ hay người được chế độ bảo hộ cho làm kinh tế để đảng có thể kiểm soát không những các doanh nhân giàu có mà còn cả nền kinh tế. Xem ra đó chỉ là việc thay đổi cách lãnh đạo độc quyền của Đảng CSVN về kinh tế bằng một hình thức mới để tạo xung lực mới mặc dù xung lực này có hiệu năng thực sự hay không thì còn quá sớm để biết.

Nhưng hiện nay Việt Nam còn phải đối mặt với một khó khăn về kinh tế to lớn hơn nữa mà có thể ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của quốc gia Đông Nam Á Này. Đó là chính sách thuế quan mà chính phủ của Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump áp đặt cho Việt Nam lên tới 46% trong đợt đánh thuế nhập cảng vào Mỹ hôm 2 tháng 4 năm 2025. Dù ngay sau đó, TT Trump đã ra lệnh trì hoãn thời hạn áp dụng mức thuế này đến 90 ngày và vào ngày 11 tháng 4 Trump đã tuyên bố không đánh thuế các mặt hàng điện thoại thông minh nhập cảng vào Mỹ, nhưng Bộ Trưởng Thương Mại Mỹ Howard Lutnick đã cho biết hôm Chủ Nhật, 13 tháng 4 rằng việc không đánh thuế các mặt hàng điện thoại thông minh chỉ là tạm thời, theo bản tin của hãng thông tấn Mỹ AP cho biết hôm 13 tháng 4 năm 2025.

Theo ký giả của Đài BBC là Jonathan Head trong một bài viết hôm 8 tháng 4 thì thu nhập từ hàng xuất cảng của Việt Nam sang Mỹ chiếm tới 30% tổng sản lượng quốc gia của Việt Nam và vì vậy việc chính phủ Mỹ áp thuế 46% hàng Việt Nam nhập cảng vào Mỹ sẽ đe dọa đến sự phát triển kinh tế Việt Nam lâu dài.

Còn về chính trị thì từ trước tới nay Đảng CSVN chưa hề mở cửa thực sự mà chỉ thay đổi cách ứng phó theo từng thời kỳ. Nhưng chủ trương đóng chính trị, xiết tự do, dân chủ và nhân quyền thì là bất biến. Về điều này, trong báo cáo năm 2024 của tổ chức Human Rights Watch(26) ghi rằng:

“Việt Nam đàn áp có hệ thống các quyền căn bản của người dân đối với tự do phát biểu, lập hội, tụ họp ôn hòa, vận động, và tôn giáo. Các nghiệp đoàn độc lập, các tổ chức nhân quyền, và các đảng chính trị đều bị cấm. Đảng Cộng Sản Việt Nam (Communist Party of Vietnam - CPV) cai trị đất nước này ngót 50 năm và trừng phạt nặng nề bất cứ người nào thách thức sự độc quyền lãnh đạo của họ.

“Chính quyền cấm đoán báo chí và truyền thông độc lập. Chính quyền có hệ thống đóng chặt việc tiếp cận các trang mạng và trang truyền thông xã hội nhạy cảm, và họ thường áp lực các công ty truyền thông và viễn thông để xóa bỏ hay hạn chế nội dung chỉ trích chính quyền hay đảng lãnh đạo.

“Việt Nam hiện giam giữ hơn 160 người trong nhà tù vì họ thực hiện một cách ôn hòa các quyền dân sự và chính trị cơ bản của họ. Trong 10 tháng đầu năm 2023, các tòa án đã kết án ít nhất 28 nhà hoạt động cho các quyền và tuyên án các bản án tù lâu dài. Họ là Trương Văn Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Trần Văn Bang, Bùi Tuấn Lâm, và Đặng Đăng Phước.

“Chính quyền hạn chế hoạt động tôn giáo thông qua luật pháp, các đòi hỏi ghi danh, và giám sát. Các nhóm tôn giáo phải được chấp thuận và ghi danh với chính quyền và hoạt động dưới các ủy ban quản trị do chính quyền kiểm soát.

“Công an theo dõi, quấy rối, và đôi khi đàn áp một cách bạo lực các nhóm tôn giáo hoạt động bên ngoài các cơ chế do chính quyền kiểm soát. Các nhóm tôn giáo không được thừa nhận – gồm các nhóm Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa Giáo, và Phật Giáo độc lập – thường xuyên bị giám sát, quấy rối, và đe dọa.”

Trong khi đó, nhà báo Trường Sơn trong bản tin đăng trên Đài Á Châu Tự Do hôm 26 tháng 3 năm 2025 cho biết rằng chính quyền CSVN giam giữ 81 tù nhân tôn giáo theo phúc trình của Ủy Hội Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế của Hoa Kỳ.(27)
 
50 năm nhìn lại, thay lời kết
 
Năm mươi năm qua, Đảng CSVN luôn luôn núp dưới cái bóng ma “chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản” để độc quyền cai trị đất nước. Nhưng thực ra “xã hội chủ nghĩa, xã hội cộng sản” ấy chưa bao giờ hiện hữu thực sự trên thế gian này, ngay cả tại đất nước sinh ra nó là Nga. Nó chỉ là một bóng ma, một ảo tưởng, một thứ lý thuyết suông và trống rỗng!

Những người cộng sản cũng chỉ là kẻ phàm tình với lòng đầy tham, sân, si thì làm gì có chuyện chính quyền chuyên chính vô sản quản lý tài sản của nhân dân để chăm lo cho đời sống của người dân một cách công, minh, liêm, chính, và bình đẳng? Năm mươi năm qua, từ ngày những cán bộ cộng sản từ rừng xuống thành thị đã tận tình vơ vét tài sản của dân bỏ vào kho lẫm do đảng quản lý hay bỏ vào túi riêng của mỗi cán bộ. Năm mươi năm qua, tại Việt Nam đã xuất hiện một giai cấp hoàn toàn mới mà có thể cả Marx và Lenin cũng không ngờ: giai cấp tư bản đỏ. Giai cấp này đã cấu kết với nhau theo nhóm lợi ích để bảo vệ quyền và lợi. Họ tự viết ra Hiến Pháp. Họ tự lập ra Quốc Hội. Họ tự phân công cán bộ nắm giữ các vai trò lãnh đạo các bộ thuộc chính phủ. Nhưng đứng trên tất cả những thứ đó chính là Đảng CSVN.

Đảng muốn độc quyền lãnh đạo đất nước nên cũng độc quyền sinh hoạt chính trị. Bất cứ cá nhân hay tổ chức nào léng phéng đến chính trị đều bị đảng dẹp bỏ ngay từ trong trứng nước. Đảng chủ trương không đa nguyên, không đa đảng, không tự do, không dân chủ và cũng không luôn nhân quyền. Đảng không nghe bất cứ lời nào trái tai, cho nên ai nói khác với đảng đều bị bắt bỏ tù, có khi không hề có bản án kết tội nào cả. Tất cả những từ ngữ cao đẹp mà đảng thường nhắc tới như tự do, dân chủ, nhân quyền đều chỉ là những sáo ngữ. Chúng có mặt trong Hiến Pháp, trong luật pháp của nhà nước, nhưng chúng không bao giờ được áp dụng một cách nghiêm túc trên đời sống thực tế xã hội.

Một đất nước bị cai trị bởi một đảng như thế thì làm sao có thể chiêu cảm được nhân tài ra đóng góp, làm sao có thể hòa giải và thống nhất được lòng dân, làm sao có thể phát huy được sức sáng tạo tiên tiến để với tới ngang tầm thời đại? Một đất nước bị cai trị bởi một đảng như thế thì làm sao mà không đẩy dân tộc đi lùi nửa thế kỷ để đến ngày nay người lãnh đạo tối cao của đảng này cũng phải thốt ra lời than thở!

“Nhìn sang Singapore, xưa họ nói được sang Bệnh Viện Chợ Rẫy chữa bệnh là mơ ước. 50 năm nhìn lại, giờ mình lại mơ sang họ khám bệnh.”(28)
 
Huỳnh Kim Quang
 
(1) Đinh Quang Anh Thái: “Dương Thu Hương, Một Con Người Tự Do,” (Tuấn Khanh's Blog - 26/04/2023 - https://nhacsituankhanh.com): “Nhà văn Dương Thu Hương được biết đến như một người từng có thời hết mực tận tụy với đảng Cộng sản Việt Nam và tự nhận là “thuộc thế hệ xẻ Trường Sơn đánh Mỹ”, nhưng trong lần trả lời phỏng vấn của The New York Public Library (live) ngày 30 Tháng Tư, 2006, bà nói: “Sau ngày 30 Tháng Tư, mọi người tràn vào Sài Gòn, những người phương Bắc cười như điên dại, vì sung sướng. Riêng tôi, đối với mọi người, giống một con điên, vì họ thấy tôi khóc như cha chết. Tôi khóc vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng, gieo vào tôi trạng thái hoang mang và cay đắng…”
(2) Cao Nguyên, “Tô Lâm thừa nhận Sài Gòn trước 75 phồn vinh: Người Việt hải ngoại nhìn nhận thế nào?” 2025.02.21. (https://www.rfa.org/vietnamese/thoi-su/2025/02/21/to-lam-sai-gon-truoc-75-phon-vinh-vnch-singapore/)
(3) Trích theo Tiến sĩ Lê Mạnh Thát trong “Trần Nhân Tông Con Người Và Tác Phẩm.” Nguồn: www.thuvienhoasen.org.
(5) Nicolas Werth, Jean-Louis Panné, Andrzej Paczkowski, Karel Bartosek, Jean-Louis Margolin, “The Black Book of Communism: Crimes,” 1999; và Repression Terror, Andrew Wiest, “Vietnam's Forgotten Army: Heroism and Betrayal in the ARVN,” 2008.
(6) Ginetta Sagan và Stephen Denney, “Re-education in Unliberated Vietnam: Loneliness, Suffering and Death,” 1982.
(7) Nguyễn Hưng Quốc, “Số Phận Của Văn Học Miền Nam Sau 1975,”
(8) Ngô Thế Vinh - Sài Gòn, Bi Kịch Những Ngày Sau Tháng Tư 1975 – “Những Tháng Ngày Của Giới Văn Nghệ Sĩ, Sau Khi Miền Nam Sụp Đổ,”  https://phamtinanninh.com/?p=6951
(9) Jennifer Llewellyn và Steve Thompson, “Post-war Vietnam,” 2018. Trong phần “Re-education,” viết rằng, “Có sự tranh luận và không đồng ý về số lượng bao nhiêu người Việt Nam chết vì đói, bệnh tật hay làm việc quá sức trong các trại cải tạo của chế độ, các phỏng đoán từ 50,000 tới 200,000 người chết. Vào khoảng năm 1982, bảy năm sau khi thống nhất Việt Nam, khoảng 120,000 người được báo cáo vẫn còn bị tù. Có nhiều báo cáo rằng việc cải tạo vẫn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1990s.” (Nguồn: https://alphahistory.com/vietnamwar/post-war-vietnam)
(10) Trần Gia Phụng, “Sau Ngày 30- 4-1975,” https://baotiengdan.com.
(11) Nguyen Van Canh, “Vietnam Under Communism, 1975-1982.” Stanford, CA: Hoover Institution Press of Stanford University, 1983.
(12) Lâm Văn Bé, “Những Biến Động Dân Số Việt Nam.” Truyền thông số 37 & 38. Montréal: 2010. tr 132-134.
(13) Huy Đức, “Bên Thắng Cuộc: I. Giải Phóng.” Boston, MA: Osinbook, 2012, tr 94.
(14) Donald H. Hohl, “U.S. Immigration Legislation-Prospects in the 94th Congress,” 1975.
(15) Bram Steenhuisen, “Last Vietnamese boat refugee leaves Malaysia,” 30 August 2005, www.unhcr.org.
(16) W. Courtland Robinson, “Terms of Refuge,” London: Zed Books, 1998, p. 193.
(17) Thuy Vo Dang, “Little Saigon and VietnameseAmerican Communities,” 2013 - https://escholarship.org.
(18) Jeanne Batalova, “Vietnamese Immigrants in the United States,” ngày 10 tháng 10 năm 2023, www.migrationpolicy.org: “Người Việt Nam ly hương sống tại Hoa Kỳ có tổng cộng gần 2.4 triệu người gồm những người sinh tại Việt Nam hay có tổ tiên hay chủng tộc là người Việt Nam, theo thống kê năm 2021 của American Community Survey (ACS).”
(19) Christian Collet, “The Determinants of Vietnamese American Political Participation: Findings from the January 2000 Orange County Register Poll,” May 26, 2000.
(20) EXPLAINED: Why does the South Vietnamese flag spark tension? - Radio Free Asia, August 31, 2024. www.rfa.org.
(21) Jennifer Llewellyn, Steve Thompson, “Post-war Vietnam,” September 1, 2018, https://alphahistory.com/vietnamwar/post-war-vietnam.
(22) Staf Henderickx, “Việt Nam 50 năm sau chiến tranh,” 10 tháng 05 năm 2024 - https://ordi.vn/binh-luan/viet-nam-50-nam-sau-chien-tranh
(23) Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ, “Điều gì cản trở kinh tế tư nhân phát triển ở Việt Nam?” Ngày 15 tháng 3 năm 2025 -  www.rfa.org.
(24) Dư Lan, “Tổng Bí thư Tô Lâm phá bỏ thành trì cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản,” ngày 26 tháng 3 năm 2025 - www.rfa.org.
(25) Dư Lan, “Tô Lâm xây dựng hệ thống “Công an - Tài phiệt trị” theo mô hình Nga?,” ngày 24 tháng 3 năm 2025 - www.rfa.org.
(27) Trường Sơn, “Chính quyền Việt Nam bị cáo buộc giam giữ 81 tù nhân tôn giáo,” 2025.03.26 -- www.rfa.org.
(28) Xem chú thích 2.
 

Ý kiến bạn đọc
09/05/202511:55:09
Khách
Bài viết rất công phu; kết luận chuẩn xác.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhạc sĩ Văn Cao hoàn thành ca khúc Mùa Xuân Đầu Tiên theo đơn đặt hàng của báo Sài Gòn Giải Phóng. Ca khúc được đăng lần đầu trên số báo Xuân của tờ Sài Gòn Giải Phóng dịp Tết Bính Thìn, năm 1976. Thực tế, ý tưởng cho nhạc phẩm này vốn dĩ đã được ông ấp ủ từ năm 1973 – thời điểm sau khi các bên gồm Hoa Kỳ, Bắc Việt, Việt Cộng và Việt Nam Cộng hòa đã ký kết Hiệp định Paris vào ngày 27 Tháng Một năm 1973. Hiệp định này kêu gọi việc ngừng bắn giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, đánh dấu bằng việc quân đội Hoa Kỳ rút về nước
Nửa thế kỷ trước, nước Mỹ đã không tôn trọng lời cam kết giúp VNCH chiến đấu tới cùng trước làn sóng xâm lăng của Cộng Sản Thế Giới. Nhiều người, cả Việt lẫn Mỹ, cũng như dư luận thế giới, đã gọi đây là một sự phản bội đáng xấu hổ. Nhưng có học giả Mỹ đã khẳng định: “Sự phản bội của nước Mỹ đối với Nam Việt Nam là một trong những điều thông minh nhất mà nước tôi đã từng làm”.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Mỗi ngày, tôi đều nhắc mình rằng: Chúng ta phải giữ gìn câu chuyện này, phải kể lại trung thực, để không ai – kể cả chế độ cộng sản – có thể viết lại lịch sử của chúng ta. Tôi mong các đồng nghiệp trong Quốc Hội hãy cùng tôi không chỉ tưởng nhớ những nỗi đau mà chúng tôi đã trải qua, mà còn tôn vinh tinh thần bất khuất của người Việt Nam. Hãy vinh danh các cựu chiến binh – cả Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa – những người đã hy sinh cho tự do. Và trong ngày kỷ niệm đau thương này, hãy cùng nhau nhắc lại cam kết: giữ vững các giá trị quan trọng nhất – dân chủ, nhân quyền, và khát vọng sống tự do.
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Ngày 4/1/2025, trong phòng House Press Gallery của Capitol Hill, giữa hàng trăm dân biểu chuẩn bị tuyên thệ nhậm chức, có một người đàn ông gốc Việt, nắm chặt tay cậu con trai nhỏ của ông, đứng trò chuyện với các dân biểu, thượng nghị sĩ khác. Vài tiếng sau đó, cùng với các dân biểu đắc cử trên khắp tiểu bang nước Mỹ, ông đưa tay tuyên thệ, chính thức trở thành dân biểu liên bang gốc Việt đầu tiên đại diện cho Little Saigon trong 50 năm qua.
Trong 50 năm vừa qua, cộng đồng Việt Nam đã có những thành tựu nào về chính trị và văn hóa? Thực tế là đã có rất nhiều chuyển biến. Thời gian đầu là những cộng đồng tỵ nạn ở Hoa Kỳ, lan rộng thành những cộng đồng đông người Việt hơn ở rất nhiều nước trên thế giới; và rồi hình ảnh những người thất trận và tỵ nạn mờ nhạt đi. Nhiều thế hệ trẻ ra đời, trưởng thành, trở thành và gánh vác một căn cước mới. Từ đó, có nhiều cộng đồng mang thêm sức mạnh chính trị, văn hóa.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.