Hôm nay,  

Danh Vọng: Không Có Kết Thúc*

23/11/202112:46:00(Xem: 2880)

Untitled

 

Khi làm việc có lý tưởng, danh vọng là thành quả của việc làm. Khi làm việc không có lý tưởng, danh vọng sẽ trở thành mục đích. Người làm bất kỳ một việc gì chỉ vì ham muốn danh vọng, lòng như một tên trộm mặc áo thầy tu, chỉ đạo đức ban ngày, khi đêm đến, bịt mặt lẫn vào bóng tối. Vì vậy, cả đời sống hồi hộp, lo âu, sợ bị khám phá, sợ bị bắt gặp. Kẻ gian không bao giờ đạt được và hiểu rõ, thế nào là “bình an dưới thế.” Nhưng tạo chấn thương sâu đậm hơn chính là lương tri, nhất là lúc về già, dù không còn trộm cướp vẫn nghe tiếng nói âm thầm khiển trách và tự kinh bỉ.

Có bao nhiêu người lớn tuổi đang hối hận vì lúc trẻ tham lam danh vọng đã có nhiều hành động đáng hổ thẹn?

Danh vọng: Leo lên, trèo lên, đi, đứng, nằm, ngồi, đều muốn cao hơn người khác, để được vỗ tay, khen thưởng, ngưỡng mộ. Khổ thay! vỗ một hồi, mỏi tay; khen một hồi, khô nước miếng; nhìn một hồi, mắt mờ ... Thế nào cũng phải ngừng. Khi ngừng, danh vọng tụt xuống cho tham vọng trồi lên.

Người cởi danh vọng như cởi thuyền đi vào bão tố. Bão cấp 1,2,3,4, thì đau khổ, buồn rầu, Bão cấp 5, thì đi không trở lại. Vậy mà lũ lượt người đi tớ cũng đi (*). Đi sau chữ "danh" là chữ "vọng", bao gồm hy vọng, thất vọng, tuyệt vọng, vọng tưởng. Trong khi chữ “danh” chỉ định giá trị trong xã hội, đời sống, chữ “vọng” là thái độ và trạng thái tâm lý. Tâm lý luôn luôn là cõi bí ẩn, vì vậy, người ham mê danh vọng luôn luôn là kẻ bí mật, nếu không muốn nói là đen tối.

Danh, tiền và tình liên quan gắn bó với nhau. Có một thứ, dễ rủ hai thứ còn lại về cùng một nhà. Có danh, dễ kiếm tiền và dễ dụ gái. Người ham danh thường là người mê tiền và mê sắc dục. Hoặc nói trần trụi: ham một thứ là ham cả ba. Từ quan điểm này, có thể nào đưa ra một giả thuyết: người ham danh là người có máu lường gạt và lòng phản bội? Hoặc nói ngược lại: kẻ phụ bạc vợ chồng thường là kẻ ham danh, ham tiền.

Danh vọng thuộc về một dòng họ gồm có ganh tị, cạnh tranh, ghét bỏ, ám hại, gièm pha, khinh bỉ, xem thường, thiếu hiểu biết, cực đoan và ngu dốt. Tại sao ngu? Người thông thái để danh vọng theo đuổi mình. Kẻ ngu rượt đuổi danh vọng. Chúa, Phật, Einstein,  Socrates, ... mỗi sớm mai mở cửa, danh vọng sắp hàng chờ đợi trước nhà. Ngược lại, có điều gì bất ổn, lạ kỳ, khi ngày đêm chúng ta đuổi theo danh vọng, rượt một bóng mờ chạy nhanh phía trước. Có điều gì điên rồ khi ôm một đám mây mà sung sướng tưởng đang ôm vĩnh viển tình, tiền, danh. Lẽ ra nên để tâm hồn và thời giờ ôm vợ hay chồng mới phải.

Có ai cảm thấy mình đạt danh vọng cao vì yêu chồng, mê vợ, yêu con cho đến cuối đời? Tôi khâm phục, vỗ tay, ngưỡng mộ những người này hơn hết thảy các nhân vật đứng trên tượng đài. 
  

Được danh vọng và tham danh vọng, không phải là hai mặt của một đồng tiền, mà là hai con bài khác nhau: một con xì rô, một con xì bích. Người đánh bạc xem hai con này có giá trị như nhau. Người bói toán, chiêm nghiệm tương lai, lật bài xí bích, biết ngay tai vạ. Người nào đang tính toán trộm cắp công danh, thay vì dùng tài năng đoạt lấy, nghĩ lại đi, có phải trái tim mình giống con bích đen?

Người tham danh vọng không phải không có tài, nhưng họ muốn được công nhận, thù lao, tôn vinh lớn hơn tài năng họ đang có. Như con tôm muốn hóa rồng, nhảy qua ba đợt sóng lớn, cuối cùng bị sóng đánh lộn nhào: đít lên đầu, đầu xuống đít. Nếu chúng ta quan sát hàng ngày, chung quanh có rất nhiều người đang nhảy, dù đít đã ở trên đầu. Có con sâu xấu hóa thành bướm đẹp, thì có con dòi hôi hóa thành ruồi bẩn. Cũng là hóa thân, sao người ta hay dùng bướm làm ẩn dụ mà không dùng ruồi? Ruồi lúc nào chẳng nhiều hơn bướm.

Định luật tự nhiên ngàn đời đã định: Biết bơi thì ở dưới nước. Biết chạy nhảy thì ở trên bờ. Biết bay thì lên không trung. Cả ba loại này đều không thể thành rồng, vì rồng là ảo ảnh, ảo mộng, hoang tưởng. Có ai thấy được con rồng ra sao? Có ai biết được con rồng là kiểu mẫu của cá sấu thăng hoa? Người muốn hóa rồng phải chăng căn cước của họ vốn là cá sấu? Nên khi thành rồng giả thì bản tính "cá xấu" gây hại cho người khác và tự di họa bản thân? Nhìn một cách thật thà hơn, bình dân hơn, dòi không thể thành bướm. Danh vọng cao nhất của dòi là ruồi.



Ở dưới nước, vì sao lại muốn làm vua trên bờ? Man rợ trong rừng sâu, vì sao muốn trở thành hoàng hậu, công chúa? Vì sao tất cả chim bay, không con nào muốn hóa thành con còng con cua? Thế mới hiểu ra, danh vọng không bao giờ đi xuống. Nếu đi xuống, gọi là thất vọng. Danh vọng luôn luôn đi lên, không có giới hạn, không có thỏa mãn, hành trình này gọi là tham vọng. Như vậy, danh vọng và thất vọng mới là hai mặt của một bàn tay. Một mặt dùng để vuốt ve an ủi, mặt kia dùng để tát tai.

Thức dậy lúc 2 giờ sáng,

sau một chiêm bao kinh hoàng.

Mơ gặp một ông thầy, dạy tôi nghề ăn trộm.

Khi ông làm chính trị, dạy cướp bóc kẻ dại khờ.

Dạy tham nhũng là làm phước cho người thất thế.

Dạy nói dối là sấm truyền cho kẻ có mắt nhưng mù.

Dạy ngu xuẩn vì cả tin không bao giờ kiểm chứng. 

Khi ông làm tu sĩ, dạy ăn trộm tâm linh.

Dạy gặp kẻ khổ đau, hứa cho họ hạnh phúc.

Dạy gặp kẻ bần cùng, hứa cho họ đầy đủ đời sau.

Dạy gặp kẻ thất tình, hứa với họ đi tu sẽ vui sướng.

Dạy lời hứa là khí giới lợi hại nhất trên đời,

Người hứa với nhau như chơi xì tố, không ai có đôi.

Khi ông làm kinh doanh, dạy tôi:

giả hình và lợi dụng là anh em sinh đôi,

xuất hiện liên hồi, người mất tiền không biết ai thủ phạm.

Hạ sách: Đem cái lợi dụ người.

Trung sách: Giả giàu sang cho họ bắt chước.

Thượng sách: Mang mặt nạ từ thiện.

 

Ông dạy tôi bay và bay rất cao, lả lướt trên thành phố.

Bạn bè, hàng xóm, kể cả thị trưởng đều ngưỡng mộ.

Phụ nữ đẹp đến xin chữ ký, thanh niên xin làm học trò.

Tôi rạng rỡ như cây đuốc olympic, mọi người phải bảo vệ.

Rồi đến hôm biểu diễn bay,

tôi giăng đôi tay, chạy thật nhanh, chờ cất cánh,

Lạ lùng thay, như con vịt lẹt đẹt không cách nào bay lên.

Người xem thất vọng, la ó, quăng cà chua, quăng trứng.

Tôi quá sức xấu hổ với vợ con.

Thức dậy,

suốt đêm vẫn còn xấu hổ.

Danh vọng như lãnh lương. Làm giáo sư lãnh lương cao. Làm công nhân lãnh lương thấp. Lương bổng tương xứng với khả năng. Danh vọng tương ứng với tài hoa. Việc này tự nhiên thôi. Làm thơ đại khái mà muốn nổi bật như Lorca, là nhân công hầm mõ cần được trúng số độc đắc. Ra quán bàn chuyện chính trị, quân sự đông tây như Hàn Tín, Trương Lương, là hiểu nhà lính, nói nhà quan.

Danh vọng là kết quả trao đổi không tương đương nhưng phù hợp với tài năng, là xì rô. Ra ngoài điều kiện này, danh vọng là xì bích. Cầm trong hồn lá bài bích là điềm xấu, ít nhất là nỗi buồn tự xấu hổ. Đã là người có danh vọng vì sao mang mặc cảm trong lòng, vì con xì bích ngự trị, ám ảnh, luôn luôn cảnh báo danh vọng sắp bị thất vọng.

Đôi khi, có người tự hỏi, mình có tài, tại sao không có danh vọng phù hợp? Có thể vì không gặp thời, chuyện này hiếm hoi. Có thể vì không phát huy tài năng đúng mức. Có thể vì tưởng lầm mình có tài. Từ một tài năng có thật, biến thành hiệu quả để có danh vọng xứng đáng, đòi hỏi một hành trình tuy ngắn ngủi từ trí não đến hai bàn tay, nhưng xa vời như đường đi từ trái đất lên đến mặt trời. Nhưng trước hết, làm sao biết mình có tài hay không? Hỏi mẹ vợ, mẹ chồng, thì rõ.

Danh vọng được xác định khá rõ ràng, là ham muốn địa vị cao trong xã hội, thế giới, hoặc lịch sử. Nghĩa là, có đám đông mới có danh vọng. Lên núi, vào sa mạc, đóng cửa nhà, ở một mình, chỉ có gia đình, tự nhiên danh vọng bỏ đi. Tránh danh vọng là tránh đám đông. Chẳng phải vì vậy Lão Tử đã cưỡi trâu biến vào sa mạc?

Những nghệ sĩ chân chính thường hiểu được ảnh hưởng trì trệ của đám đông, họ tìm cách tránh né, bỏ chạy. Họ lơ là với đám đông cụ thể nhưng lại quan tâm đến đám đông vô hình, đám đông trong tương lai, vì vậy, danh vọng lại trồi lên. Thể loại danh vọng trường tồn trong tương lai này, về mặt lịch sử, đào tạo những chính trị gia đủ hạng tốt xấu.

Chẳng hiểu vì sao danh vọng lại thu hút người ta say mê, cuồng dại, có khi thảm thiết như vậy?

Có lẽ, đa số con người không muốn nhìn nhận hoặc không biết sự thật về mình.

Ngu Yên

*Trích từ Tạp Chí Đọc và Viết số 7 - Số Đặc Biệt Giáng Sinh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.