Hôm nay,  

Hiệp Định Paris 27/1/1973 Kissinger phản bội cả VNCH lẫn Hoa Kỳ

26/01/202400:00:00(Xem: 3910)
 
Hiệp Định Paris
Phòng họp ký kết Hiệp định Paris – Paris International Center
(Hình: Harvard Ash Center)
                                                                                         
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.

“Người ta thường hỏi tôi lúc nào tôi đã xúc động nhất trong cuộc đời công vụ của mình,” Kissinger viết, “Giờ phút làm tôi cảm động nhất phải là buổi sau trưa ngày Chủ Nhật mát dịu vào mùa Thu năm ấy, khi bóng rợp bao trùm lên thành phố Paris êm đềm...” Hôm ấy là Chủ Nhật, ngày 8/10/1972.      

Bưổi họp với ông Thọ dẫn đến việc ký kết Hiệp Định Paris ngày 27/1/1973.

Danh tiếng của Kissinger nổi lên như sóng cồn. Và ông nhận được Giải Nobel Hòa Bình 1973 (cùng với ông Lê Đức Thọ, nhưng ông Thọ không nhận).
Ngày 10/12/1973 là ngày trao giải thưởng. Vì không thể có mặt tại Oslo vào ngày này, Kissinger nhờ ông Thomas R. Byrne, Đại sứ Mỹ tại Na Uy đọc bài diễn văn thay ông. Rất hùng biện về ý nghĩa của Hòa Bình. Bài diễn văn mở đầu:

“Giải thưởng Nobel Hòa bình là một giải thưởng cho một mục đích cũng như giải thưởng cho một cá nhân. Hơn cả thành tựu về hòa bình, tượng trưng cho chính sự đi tìm kiếm hòa bình.

Phát biểu như vậy là Kissinger đã nói dối với cả thế giới, với lịch sử. Và điều này thì chính Ủy Ban Nobel cũng đã nghi ngờ khi quyết định trao giải thưởng.
Mới đây, ngày 12/1/2023 – theo Reuters thì hồ sơ về các đề cử cho Giải Nobel Hòa Bình 1973 đã được giữ bí mật trong 50 năm theo quy định, cho nên bây giờ mới được tiết lộ. Hồ sơ này cho biết Ủy ban Nobel vẫn trao giải Hòa bình 1973 cho nhà ngoại giao hàng đầu của Hoa Kỳ Henry Kissinger và ông Lê Đức Thọ của Bắc Việt Nam. Nhưng đây là một trong những giải gây tranh cãi nhất trong lịch sử của giải này. Ủy Ban vẫn trao giải dù khi đã biết rõ rằng Chiến tranh Việt Nam khó có thể kết thúc sớm. Stein Toennesson, giáo sư tại Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo, người đã xem xét các tài liệu liên hệ nói với Reuters: “Bây giờ tôi thậm chí còn ngạc nhiên hơn lúc đó, rằng ủy ban có thể đưa ra một quyết định tồi tệ đến như vậy.” Lúc ấy hai trong số năm thành viên của Ủy ban Nobel đã từ chức để phản đối.
 
Sở dĩ như vậy là vì Kissinger đã “đi tìm kiếm hòa bình” trong gian dối và với “mục đích”  – một phần không nhỏ là phục vụ quyền lợi riêng của mình – như tác giả Dallek đã thuật lại:

TT Nixon và Tướng Haig tin chắc rằng Henry được thúc đẩy mạnh mẽ về tất cả những sự việc này là vì muốn rằng – sau cùng – thì chính mình là người đã mang lại hòa bình. Hai người cho rằng đây là một vấn đề lớn vì do vậy mà Kissinger đã cố gắng thúc đẩy cho bằng được để có một hiệp định.” (Henry is strongly motivated in all this by a desire for pesonnaly being the one to finally bring about the final peace settlement.” They saw this as “a major problem in that it’s causing him to push harder for a settlement”).

Bốn năm mật đàm là hư vô

Dù trong thời gian 2016-2023 một số tài liệu về Hiệp Định Paris đã được giải mật nhưng toàn bộ hồ sơ liên hệ tới mật đàm của ông Kissinger vẫn chưa được tiết lộ. Đó là vì Kissinger đã giấu nhẹm hồ sơ này đi và nó không còn nằm ở Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại Tòa Bạch Ốc nữa.

Thật may mắn là hồ sơ vẫn còn được TT Nguyễn Văn Thiệu cất giữ và chúng tôi đã được ông trao cho và giữ lại cho lịch sử. Về bối cảnh chung quanh câu chuyện này thì chúng tôi đã ghi lại trong cuốn sách “Bức Tử VNCH-Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm” (BTVNCH) sắp được xuất bản nay mai.

Kissinger đã đánh lừa nhân dân Mỹ, cả thế giới và cả TT Nixon nữa, nhưng ông đã không đánh lừa được TT Thiệu.

Trở lại buổi họp Kissinger – Thọ ngày 8/10/1972: họp xong Kissinger bay về Washington báo cáo cho TT Nixon là ông Thọ đã nhượng bộ hoàn toàn và thuyết phục ông Nixon cho phép ông bí mật bay đi Hà Nội để ký tắt vào bản sơ thảo hiệp định, kế hoạch là vào ngày 24/10/1972. Ký xong thì trở về Washington, và lúc ấy thì mới tiết lộ về hòa bình. Theo kịch bản này thì sự tiết lộ về chuyến đi Hà Nội chắc chắn sẽ gây chấn động hơn là việc TT Nixon tiết lộ về việc ông Kissinger đã mật đàm tại Paris và việc ông đi Bắc Kinh hồi tháng 7/1971.

Nhưng vì ngày bầu cử nhiệm kỳ hai của TT Nixon (20/11/1972) đã gần kề, ông e ngại rằng ông Thiệu sẽ phản thùng (không ký) giống như hồi bầu cử 1968 (do chính Nixon xúi để chống ông Humphrey) thì ảnh hưởng lại bất lợi. Vì vậy, ông chỉ thị Kissinger phải ghé Sàigòn thuyết phục ông Thiệu trên đường đi Hà Nội.

"Tôi sẽ không ký"

Kissinger tới Sàigòn ngày 18/10/1972 và họp với Tổng thống Thiệu tại Dinh Độc Lập ngày hôm sau. Hết sức thân mật, niềm nở, ông trao cho ông Thiệu một lá thư của Tổng thống Nixon đề ngày 16/10/1972. Lời lẽ lâm ly thống thiết, bức thư thật dài đã giải thích cặn kẽ về kết quả tốt đẹp của việc đàm phán tại Paris, và "Đây quả là một sự đảo ngược quan trọng về lập trường của Bắc Việt." Thêm vào đó là những hứa hẹn đủ điều. Để tăng mức độ tin cậy, ký thư xong, Nixon còn viết tay thêm vào là:
 
"Đề nghị này thỏa mãn được điều kiện tuyệt đối của
 tôi là VNCH phải tồn tại như một quốc gia tự do."
 
Cái đau đớn cho ông Thiệu là phải ngồi nghe Kissinger thao thao bất tuyệt: "Đây là lúc thuận lợi để đi tới một hiệp ước với Bắc Việt vì dù sao chăng nữa, VNCH cũng đã có một quân lực trên một triệu người và đã kiểm soát được 85% dân số rồi."
 
Khi ông Thiệu hỏi tại sao trong hiệp định không có đoạn nào nói tới việc Bắc Việt rút quân khỏi Miền Nam thì Kissinger trả lời: "Chúng tôi đã thảo luận điều đó với Bắc Việt nhưng họ không chấp nhận, cho nên chúng tôi nghĩ rằng không nên để nó vào (văn bản) để khỏi làm hỏng bầu không khí!" Không chế ngự được nữa, ông Thiệu đã phản ứng mạnh và đã có những cuộc đối thoại gay gắt trong hai ngày tiếp theo.
 
Từ Sàigòn, ngày 21/10/1972, Kissinger đánh điện về Washington yêu cầu TT Nixon cứ cho ông đi Hà Nội mặc dù Sàigòn chống đối hiệp định. Hôm sau, Kissinger lại báo cáo thêm: "Những yêu sách của ông Thiệu gần như là điên khùng." Chỉ còn vài tuần lễ nữa là tới ngày bầu cử. Nixon lưu ý Kissinger là nếu hấp tấp quá mà không có sự đồng ý của ông Thiệu thì sẽ là một trở ngại chính trị.
 
Dù sao, Kissinger hy vọng là cuối cùng với những cam kết chắc chắn của TT Nixon, ông Thiệu sẽ đồng ý ký.
 
Khi nói chuyện với chúng tôi về giai đoạn này, TT Thiệu tâm sự: "Kissinger đến với mình không như một chiến hữu mà là đến để biện hộ cho lập trường của Bắc Việt..." Tâm trạng ông như vậy nên ta có thể hiểu được câu kết luận của ông  vào cuối buổi họp khi Đại sứ Mỹ Ellsworth Bunker (cùng đi với Kissinger) đặt câu hỏi
-- "Vậy thì, thưa Tổng thống,", "lập trường chót của Ngài là không ký, phải không?"
 
 -- "Vâng, đó là lập trường cuối cùng của tôi," ông Thiệu đáp," Tôi sẽ không ký và xin Ngài thông báo cho Tổng thống Nixon biết như thế. Xin quý vị trở về Washington và nói với Tổng thống Nixon rằng tôi cần được câu trả lời. »
Tại sao TT Thiệu không ký

Đó là là vì ông Henry Kissinger đã thất bại hoàn toàn trong việc đàm phán với ông Lê Đức Thọ nhưng lại báo cáo với TT Nixon ngược lại và thuyết phục ông ép TT Thiệu chấp nhận ký kết hiệp định trên căn bản là “phía Cộng Sản đã nhượng bộ hoàn toàn.”
Thay vì đi vào chi tiết từng điểm của Hiệp Định, như vậy sẽ quá dài, nên có lẽ đơn giản và gọn gàng nhất là ta cứ so sánh kết quả của những sự việc theo phương pháp ‘trước và sau’ đàm phán.

Bắt đầu đàm phán, lập trường của hai bên là như thế nào?

Lập trường phía Bắc Việt:

Ngày 9/5/1969, phía Cộng sản đưa ra lập trường ‘10 Điểm của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam’ (MTGPMN) đòi hỏi (1) quân đội Mỹ rút toàn bộ khỏi Miền Nam; và (2i) đang khi chờ đợi một cuộc tổng tuyển cử tự do, dân chủ ở Miền Nam, tất cả các phe phái chính trị Miền Nam sẽ đàm phán để thành lập một chính phủ liên hiệp tạm thời.

 Lập trường Hoa Kỳ và VNCH:

Ngày 14/5/1969, Tổng thống Nixon tuyên bố lập trường chung của Hoa Kỳ và VNCH: thay vì đòi quân đội Bắc Việt phải rút 6 tháng trước khi quân đội Mỹ bắt đầu rút (như lập trường của TT Lyndon Johnson), ông Nixon đưa ra đề nghị là ‘cả hai bên cùng rút một lúc.’ Rồi ông tóm lại trên đài truyền hình cho cả thế giới nghe:

“Chúng tôi đã gạt bỏ ra ngoài hoặc là việc rút lui khỏi Việt Nam một cách đơn phương, hoặc việc chấp nhận tại Paris bất cứ giải pháp nào có tính cách như một thất bại ngụy trang...

“Và đó là phác họa về một giải pháp mà chúng tôi muốn đàm phán ở Paris. Nguyên tắc căn bản của nó là đơn giản: triệt thoái cả hai bên bất cứ quân đội nào không phải là quân đội Miền Nam ra khỏi Miền Nam Việt Nam và dành quyền tự quyết cho dân tộc Việt Nam” (xem ‘Khi Đồng Minh Tháo Chạy,’ trang 646)

Henry Kissinger vào cuộc

Ngày 4/8/1969 (năm đầu của nhiệm kỳ Tổng thống Nixon), ông Kissinger giả bộ đi Paris gặp Tổng thống Georges Pompidou nhưng thực ra là để gặp hai ông Xuân Thủy và Mai Văn Bộ tại nhà ông Jean Sainteny không xa phố sang trọng Rue de Rivoli. Ông mở đầu bằng câu phát biểu: “Chúng tôi sẵn sàng thảo luận về lập trường ‘10 Điểm của Mặt Trận Giải Phóng’, nhưng chúng tôi không thể chấp nhận rằng nó giống như Mười Điều Răn Chúa, nó đã được khắc vào bia đá, không thể điều đình được.” (We were prepared to discuss the Ten points of the National Liberation Front, but we could not accept that like the Ten Commandments they were graven in stone and not subject to negotiation).

Kết thúc mật đàm, lập trường của hai bên ra sao?

Kết thúc mật đàm là Hiệp định Paris ký ngày 27/1/1973. Hiệp định này rất phức tạp, gồm 23 điều, mỗi điều khoản gồm nhiều tiểu điều, dài dòng văn tự. Ngay từ 1973, chúng tôi đã bỏ ra nhiều công sức tìm kiếm những lập trường đàm phán để so sánh, vì ít người còn nhớ hay quan tâm đến lập trường của hai bên đàm phán vào năm 1969. Xem xét toàn bộ hồ sơ tại Dinh Độc Lập chúng tôi cũng không tìm thấy văn kiện nào về sự so sánh này. Người dân và truyền thông Hoa Kỳ thì cũng chỉ biết được những gì do hai ông Kissinger và Nixon tuyên bố, phân tích.

Kết quả sự nghiên cứu của chúng tôi là 10 điều khoản vắn gọn do Mặt Trận Giải Phóng đưa ra ngày 9/5/1969 (mà tới lúc ký Hiệp Định Paris thì chẳng ai còn nhớ) đã được gói ghém trọn vẹn và còn được liệt kê ra cho rõ chi tiết, cặn kẽ hơn nữa trong 23 điều khoản dài dòng của Hiệp định Paris ký ngày 17/1/1973.

Trong cuốn BTVNCH chúng tôi đã có bản so sánh chi tiết về hai lập trường này và kết luận rằng: HĐ Paris còn nhượng bộ nhiều hơn là đòi hỏi của MTGP đưa ra năm 1969. Tóm gọn là như thế này:  chỉ có hai vấn đề quan trọng nhất cần đàm phán, đó là: (1) quân đội Bắc Việt tiếp tục đóng lại ở miền Nam, và (2) một chính phủ liên hiệp giữa các phe nhóm Miền Nam.

Trong hai điều đó, điều (1) có ý nghĩa quan trọng nhất: Hiệp định Paris đã  nhượng bộ hoàn toàn về vấn đề này. Điều (2): chỉ có một cái tên được thay đổi: “Hội đồng hòa giải và hòa hợp dân tộc” được sử dụng thay vì ‘Chính phủ Liên Hiệp’. Tuy nhiên, sự khác biệt là không đáng kể vì Hội Đồng này bao gồm tất cả các chức năng chính của một chính phủ Liên Hiệp như được những người Cộng sản định nghĩa vào năm 1969.

Hiệp Định Paris đã gói trọn những điều mà Kissinger gọi là "10 Điều Răn Của Chúa." Thí dụ như điều khoản về quân sự là điều quyết định sự sống còn của VNCH, hiệp định này lại còn nhượng bộ hơn là đòi hỏi ban đầu: vì còn thêm vào là quân đội Mỹ và đồng minh phải rút "nội trong 60 ngày," và quy định việc rút đi một cách chặt chẽ, đầy đủ hơn nhiều:

  • Điều 2 của '10 Điểm' do MTGP đưa ra năm 1969 chỉ đòi là:
“Chính phủ Hoa Kỳ phải triệt thoái khỏi Miền Nam Việt Nam tất cả quân đội, vũ khí và vật dụng chiến tranh của Hoa Kỳ và của tất cả các quốc gia thuộc phe Hoa Kỳ, mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào."
 
  • Điều 5 của Hiệp định Paris năm 1973:
“Nội trong 60 ngày, sau khi bản Hiệp Định được ký kết, tất cả quân đội, cố vấn quân sự, và nhân viên dân chính làm việc cho quân đội, bao gồm nhân viên kỹ thuật làm việc trong các chương trình bình định, vũ khí, và đạn dược, và vật dụng chiến tranh của Hoa Kỳ và của các quốc gia khác, đã dẫn ở Điều Ba, phải được hoàn toàn triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam. Các cố vấn cho các tổ chức bán quân sự và cảnh sát thuộc các quốc gia nêu trên cũng phải triệt thoái trong thời hạn nêu trên.”
                                           
 ***

Kết quả mật đàm là như vậy, cho nên khi TT Nixon nghe lời của Kissinger mà ép TT Thiệu phải chấp nhận, ông đã tuyệt vọng đến mức phải viết thẳng cho TT Nixon trong thư ngày 11/11/1072:

“Thưa Tổng thống, nếu như Hiệp định này cho phép quân đội Bắc Việt đóng lại ở Miền Nam Việt Nam thì những công lao tranh đấu và bao nhiêu hy sinh chúng ta đã gánh chịu trong qúa nhiều năm đều trở thành vô nghĩa!”
                                                                                    Trân trọng                                                                                                                                   Thiệu (ký)
Những hy sinh mà VNCH phải gánh chịu bao gồm từng trăm ngàn mạng sống của những chiến sĩ và người dân cũng như sự tàn phá khôn lường của chiến tranh. Những hy sinh mà chính Hoa Kỳ phải gánh chịu là 15,000 sinh mạng quân nhân Mỹ, 100,000 người bị thương và 62 tỷ đô la, cộng với những chi phí khác mà xã hội Mỹ phải gánh chịu trong suốt 4 năm đàm phán bí mật 1969-1972.
Như vậy, Henry Kissinger đã phản bội cả VNCH lẫn Hoa Kỳ.
 
Nguyễn Tiến Hưng
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.