Hôm nay,  

“Phật tính” của người con gái Việt

31/01/202500:00:00(Xem: 2333)
BACOGAI
Minh họa: Đinh Cường
 
Mới đây một người bạn online gởi đến một video clip và bản chụp mấy trang trong cuốn Kỷ niệm sân khấu của MC Nguyễn Ngọc Ngạn, hỏi ý kiến tôi về cách ông này kiến giải thành ngữ “Phận con gái mười hai bến nước”. [1]
 
Trong clip -- cắt từ một sản phẩm Paris by Night -- ông Ngạn cho biết trong chương trình trước MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên hỏi ông ý nghĩa của thành ngữ “Phận con gái mười hai bến nước” và lúc đó ông “đoán” ra hai điều: về vần, từ “gái” liền vần với “mười hai” và, về nghĩa, “số 12 trùng với 12 tuổi Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.”
 
Ông Ngạn cho biết sau đó đã nhận rất nhiều phản hồi, trong đó đáng chú ý nhất là hai ý kiến, theo đó thì “mười hai bến nước” là:
-  “Công, Hầu, Khanh, Tướng, Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục”
và:
-  “Sĩ, Nông, Công, Thương, Nho, Y, Lý, Bốc, Ngư, Tiều, Canh, Mục”.
 
Rồi ông Ngạn trình bày rằng vấn đề này không thể khẳng định đúng sai như là một “định luật” khoa học mà thuộc về phạm trù “tư tưởng” và “khoa học nhân văn”: ông cùng cô Kỳ Duyên góp nhặt trong sách, mà trong sách thì cũng chưa chắc đúng và họ, thực ra, chỉ đưa lên như những “gợi ý” nhằm tạo ra một “nhịp cầu thông cảm”.
 
Nhưng “khoa học nhân văn” cũng là… khoa học: nếu không có những định luật bất di bất dịch thì cũng có logic của nó, mà xét về logic thì cái sai đã rành rành trong hai phản hồi trên.
 
Thứ nhất là “Công, Hầu, Khanh, Tướng”. Đây chỉ là cách nói chung chung về những vị trí cao quý trong xã hội thời xưa, như câu đối của Đặng Trần Thường khi trả thù Ngô Thì Nhậm “Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai”. Nếu “Công” và “Hầu” là hai thứ bậc quý tộc thì “Khanh- Tướng” là phẩm trật quan lại trong triều, hai cặp này hoàn toàn không cùng một “phạm trù” với nhau. Nếu phân biệt thứ bậc quý tộc thì phải là “Công, Hầu, Bá, Tử, Nam”.

Thứ hai, cái sai trong lời đáp thứ hai thuộc về sự chồng chéo, thí dụ “Sĩ” cũng có thể là “Nho” v.v.
 
Sau đó, trong cuốn sách viết về đời hoạt động sân khấu, ông Ngạn đã dành ra mấy trang để mở rộng những ý trên với lời kết:
 
-  “Tóm lại, Mười Hai Bến Nước có thể không phải là Mười Hai Con Giáp như tôi phỏng đoán. Nhưng bảo rằng Mười Hai Bến Nước là Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục, Công, Hầu, Bá, Tử” thì muôn đời tôi không cho là hợp lý”.
 
Câu chuyện của ông Ngạn làm tôi nhớ lại đám cưới của ông anh họ ở quê vào cuối thập niên 1970, khi hai họ kháy nhau, móc họng nhau vì… “mười hai bến nước”. Đưa dâu đến nhà trai, một bà cô bên nhà gái đã cao hứng diễn… tuồng, quàng tay lên vai cô dâu mếu máo “phận con gái mười hai bến nước, không biết phận con rồi sẽ tới đâu” khiến đàng trai gai mắt và, cuối cùng, một người đã nổi cáu đứng lên:
 
-  “Thưa bà, bà nói vậy là có ý gì? Xin bà cho biết mười hai bến nước là những bến gì và cháu tôi thuộc về bến nào?”
 
Ông nói sang sảng khiến cả đám tiệc im bặt, hướng con mắt về bà cô đàng gái đang ngậm miệng, ú ớ, gắng gượng giải thích “bến trong, bến đục” nhưng vẫn không được tha:
 
- “Còn thiếu mười bến nữa, chúng tôi vẫn chưa biết cháu tôi là thứ bến nào, xin bà vui lòng nói rõ cho!”
 
Bà chịu thua, đầu hàng vô điều kiện. Sau đó, khi nhà gái ra về, còn đàng trai với nhau, có người nhắc lại, ông mới giải thích đó là “Công, Hầu, Bá, Tử, Nam, Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục” khiến tôi, lúc đó mới có mười mấy tuổi, đã cảm thấy sai sai.
 
Sai bởi lời đáp trên lại dư, lên tới 13 mà vẫn thiếu. Thiếu bởi trên tước Công còn có tước Vương với những nhân vật lịch sử như An Sinh Vương (Trần Liễu), Hưng Đạo Vương, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, An Định Vương (Lê Phát An) v.v. Trong khi đó thì Nguyễn Trãi, lẽ thường, phải thuộc hạng “Sĩ” nhưng ông còn mang tước “Hầu”, là “Tế Văn Hầu”, nên xếp vào đâu? Chưa nói việc xã hội nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam thời xưa thì làm gì có sự chuyên môn hóa rõ ràng giữa giữa “Nông”, “Tiều”, “Canh”, “Mục”!
 
Nhưng chỉ nghĩ trong đầu vậy thôi, tôi không dám cãi với người có vai vế ngang với ông nội mình trong khi vẫn chưa tìm ra lời đáp xác đáng. Mãi sau này đọc nhiều, học hỏi thêm từ nhiều tác giả, mới thấy lời giải đáp hợp lý nhất là “Thập nhị nhân duyên”.
 
Đó là lời Phật dạy: “Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Lão tử”: “thập nhị nhân duyên” này chuyển mãi, từ “nhân duyên” này đến “nhân duyên” khác, từ quá khứ đến hiện tại và vị lai, nên chúng sanh mới chìm đắm mãi trong vòng luân hồi lẩn quẩn.
 
Nếu sự đời xoay vần quanh “thập nhị nhân duyên” thì đời con gái cũng vậy, cũng lòng vòng trong “mười hai bến nước”. Mà nếu phận gái Việt thể hiện… ‘Phật tính” như thế thì đó, xét cho cùng, cũng chỉ là một điểm nhỏ trong yếu tố mà sử gia Trần Quốc Vượng gọi là “Phật tính của tiếng Việt”, là điều mà tôi từng đề cập trên trang talawas, những 20 năm trước:
 
‘Thường, khi động đến chữ "hiếm" chúng ta ngụ ý cái gì đó ít ỏi, như "hiếm hoi", "hiếm khi", "hiếm có", "khan hiếm"; thế nhưng "hiếm mấy" lại là... nhiều. Tiếng Việt của chúng ta có... điên hay không?
 
Có người cho rằng nó không điên mà, thực ra, đầy... Phật tính. Liên quan đến Phật tính và cả cái sự nhiều, sử gia Trần Quốc Vượng, trong cuốn Trong Cõi, nói đến cụm từ "hằng hà sa số" hay, gọn hơn, "hằng sa số": chúng ta chỉ nghe, nói, và viết theo thói quen mà ít khi nghĩ đến gốc gác và những ý nghĩa sâu xa của nó.
 
Chữ "hằng" được viết thường nhưng, từ gốc gác, đó lại là Hằng, hay Hằng Hà, con sông vĩ đại và thiêng liêng của dân tộc Ấn, được nhắc tới trong kinh Lăng Nghiêm: "Khi ấy Bồ Tát Đại Huệ lại bạch đấng Thế Tôn: Trong kinh chép Đức Thế Tôn dạy rằng các đấng Như Lai, quá khứ, hiện tại và vị lai nhiều như cát sông Hằng..." "Hằng hà sa số" ngụ ý nhiều như cát sông Hằng, và như thế, sách Phật đã đi vào tiếng nói thường ngày của chúng ta.
 
Thế nhưng tấm áo cà sa không làm nên ông thầy tu và một điển cố vay mượn khó mà thể hiện đặc tính ở tiếng nói của một dân tộc. Nếu có cái gì đó gọi là "tính" của tiếng Việt, cái đó phải thể hiện ở những ý nghĩa thâm sâu hơn, mang tính triết học cao hơn, và ở một tầm mức mang tính khái quát hơn.
 
Aristotle từng nêu lên một tiền đề về luận lý học: đã là A thì không thể là phi-A trong khi sách Phật thì cho là sự đời sắc sắc không không, có đấy mà không đấy, không đấy mà có đấy, như là hình ảnh của bóng trăng nơi đáy nước:
 
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Tuồng như bóng nguyệt lòng sông
Nào ai mà biết có không bao giờ?
 
Tiếng Việt cơ hồ cũng sắc sắc không không như vậy. Cũng một thí dụ do sử gia Trần đưa ra: "bất" có nghĩa là không, nhưng chưa hẳn gắn "bất" vào từ ngữ nào cũng đều minh định sự.... không tồn tại của nó. Như, "bất thình lình" và "thình lình", chẳng hạn.
 
Bảo rằng một ứng cử viên "bất xứng" với sự tín nhiệm của cử tri, có nghĩa là kẻ đó không hề xứng đáng và chắc chắn sẽ không bao giờ đắc cử. Nói một cuộc khởi nghĩa "bất" thành, có nghĩa là cuộc khởi nghĩa đó đã bị thất bại, thất bại từ trong trứng nước hay chỉ sau mấy ngày đầu. Cứ thế: bất đồng ý kiến, nhân vật bất đồng chính kiến, luật bất thành văn, sự bất quá tam hay "Phi cao đẳng bất thành phu phụ" v.v.. Thế thì tại sao "bất thình lình" lại y hệt "thình lình"?
 
Suy diễn rộng ra sẽ thấy rằng tiếng Việt có khá nhiều hiện tượng "sắc sắc không không" như thế. Như "ấm" và "lạnh", chẳng hạn. Vào muà Đông, để chống chọi với cái lạnh, chúng ta có thể mặc "áo ấm" hay "áo lạnh" tùy ý, áo nào cũng tốt cả và cùng một nghĩa như nhau cả. Và như thế, nếu áp dụng máy móc phương pháp loại suy của toán học sơ cấp, hai chữ trái nghĩa nhau này đều có cùng một nghĩa như nhau hay sao?
 
"Tin" hoàn toàn trái nghĩa với "nghi"/"ngờ". Thế nhưng nếu hôm thứ Năm một cựu chính khách trả lời phỏng vấn: "Tôi tin rằng Tổng thống Bush sẽ thất bại trong cuộc tổng tuyển cử năm 2004!" thì ông ta cũng chẳng hề mâu thuẫn với mình khi, ngay từ hôm thứ Hai, đã dõng dạc tuyên bố: "Tôi nghi là Tổng thống Bush sẽ thất bại trong cuộc tranh cử năm 2004!.". Cũng máy móc áp dụng phương pháp loại suy thì, ở đây, "tin" và "nghi" lại cùng một nghĩa như nhau chăng?
 
Và nếu lội ngược thời gian một chút, vị chính khách trên cũng chẳng hề bất nhất khi, trong hai lần trả lời phỏng vấn, khi thì nói năm 2000 ông Bush đã "đánh thắng ông AlGore", khi thì nói "đánh bại ông AlGore": "thắng" và "bại", vốn ngược nhau như nước với lửa thì, ở ngay thí dụ này, lại cùng một nghĩa như nhau.
 
Tố Hữu viết: Ai vô đó với đồng bào đồng chí / Nói với nửa Việt Nam yêu quý và khi một người từ bắc đi vào nam, họ đã "vào trong Nam", còn khi đi theo hướng ngược lại thì lại là "ra ngoài Bắc" cho dù ông ta chẳng vượt qua ải Nam Quan hay cửa khẩu ở Móng Cáy để "ra bên ngoài Bắc bộ". Tương tự, một người có thể "vào trong Sài Gòn" và "ra ngoài Hà Nội", cho dù, trên thực tế thì "trong Sài Gòn" anh ta cũng có thể rong chơi ở Bến Lức, Biên Hoà và khi "ra ngoài Hà Nội" anh ta chỉ quanh quẩn ở mấy phố nội thành, Hồ Gươm hay đền Trấn Vũ chứ chẳng buồn đặt chân đến Việt Trì, Vĩnh Phú, những địa danh ở "ngoài Hà Nội". "Trong" và "ngoài", rồi "ra" và "vào/vô" như thế, áp dụng phép loại suy máy móc của toán học sơ cấp, cũng cùng một nghĩa như nhau: tiếng Việt sắc sắc không không quá đi chứ?” [2]
Không chỉ tiếng Việt mà cả sử Việt, với biến loạn “Thập nhị sứ quân”, theo sử gia Tạ Chí Đại Trường”, cũng xuất phát từ ý này. Thực tế lúc đó không chỉ có “12 sứ quân” và sự thể cũng là do người viết sử chịu ảnh hưởng Phật giáo:
 
Tạ Chí Đại Trường viết:
 
“ Số sứ quân hơn 12 đã có nhiều kẻ khác. Mà không phải họ không có thực lực so sánh với các nhóm được sử quan kể...Qua thiên tai thủy họa, bụi đất hằn học của con người trải dài hơn mười thế kỷ, ta còn đếm được 15,16 sứ quân. Vậy tại sao chỉ kể có 12?...Con số 12 là cố tình đếm vừa đủ cho hợp với một phạm trù nào đó của ý thức hệ đương thời. Con số 12 được gợi từ ý niệm ‘thập nhị nhân duyên’, ‘thập nhị duyên khởi’ của Phật Giáo. Chỉ vì người chép sử Đinh là một tăng lục, Ni sư Trương Ma, như ta đã thấy rõ nhiệm vụ thế tục giao cho bà.
 
[…] Quan niệm về Thập nhị nhân duyên ấy được thấy khắp các phái trong thế giới Phật giáo từ lục địa lan xuống hải đảo Đông Nam Á, và nằm trên các tấm vàng lá cùng những phần chú giải, tìm được ở Java. Tất nhiên, Đại Việt từ lúc khởi thủy du nhập vẫn không xa rời nó. Người Phật từ tâm niệm hàng ngày với ‘nghiệp’, với ‘nhân duyên’..., và điều đó đi vào tâm trí người tăng lục sử quan của triều Đinh, trở thành sự kiện lịch sử muôn đời cho dân Việt. Sứ quân, không cần đếm rõ bao nhiêu cho đến hết, được coi như là mười hai ‘nhân duyên’ gây ra khổ nạn cho dân chúng. Và việc dẹp tan sứ quân, là một Giải thoát, đã được thực hiện bởi người chủ tướng, vị hoàng đế đã đem lại ân đức cho Trương Ma, cho tôn giáo của Bà. Sự kiện lịch sử trần trụi đã được lồng vào ý thức hệ để tuyên dương cho ý thức hệ vậy.” [3]’
 
Như thế con số “thập nhị” chỉ mang tính tượng trưng, cũng như Đinh Tiên Hoàng, sau khi dẹp yên “12 sứ quân”, xưng danh là “Vạn Thắng Vương”. Vạn, như trong “vạn tuế”, là cái gì đó rất nhiều. Thắng chưa tới hai mươi sứ quân mà đôn lên thành.. mười ngàn nên, ở đây, con số cũng được thể hiện với ý nghĩa tượng trưng!
 
Nhưng tôi sẽ bỏ qua thắc mắc của anh bạn online, sẽ không bận tâm gì đến “phỏng đoán” của vị MC ăn khách để rồi bàn đến những điều xa xôi như thế nếu không có sự liên tưởng ngược từ mấy lời kết cảm động trong bài ký của Nguyễn Khải về “Người vợ” của Trần Dần, bà Bùi Thị Ngọc Khuê.
 
Đó là một phụ nữ mà, để nuôi sống gia đình đang bị chế độ rút phép thông công thì, bên ngoài, ngày ngày phải bê cái mẹp dép nhựa chạy tránh công an và, về nhà, để đánh lừa con mắt của cái gia đình suốt mấy chục năm trời không có lấy một bữa no, bữa nào cũng tính toán để dành cơm nguội lại cho nồi cơm kế tiếp, ghế một bát sẽ nở thành mấy bát…
 
Đó là một người vợ nhẫn nhục, cam chịu; Trần Dần kêu than bị chế độ “làm khó” nhưng lại “làm khó cho vợ cả trăm lần”. Thế nhưng, như một bà mẹ, thì cực kỳ quyết đoán, có thể nhân nhượng mọi chuyện với chồng trừ việc dạy con với “luật nhà” không thể xâm phạm, như một nhà “độc tài”. Bước ra ngoài, Trần Dần có thể tùy ý mắng chửi hay nói xấu bất cứ ai -- từ chính phủ, đến xã hội, bạn bè – nhưng về nhà tuyệt đối không được hé môi bởi sẽ ảnh hưởng đến con cái...
 
Bài ký được viết sau khi Nguyễn Khải chứng kiến một Trần Dần suy kiệt, không còn biết mình là ai, cũng không làm chủ được việc bài tiết của cơ thể mà những cực nhọc của việc chăm sóc được người vợ kể lại với nét mặt tươi tắn, bình thản:
 
“Chị đã quen với nhọc nhằn đến thế sao? Chả rõ văn thơ của ông bố, vẽ vời của ông con rồi ra sẽ có ích lợi gì cho đời, chuyện đó còn phải đợi. Nhưng hiển nhiên nếu không có những người vợ, những bà mẹ một đời nhẫn nhục gánh chịu mọi tai họa vì những người thân yêu thì thế giới này sẽ buồn thảm lắm, sẽ lạnh lẽo lắm”. [4]
 
Như thế, vượt lên trên những lắt léo ngôn ngữ, vượt lên trên những lý thuyết rắm rối của tôn giáo về sự trầm luân của kiếp người, đây mới là “Phật tính” ở những phụ nữ đáng được tạc tượng của chúng ta, những người mẹ, người chị, người vợ và người em trong những giai đoạn lịch sử không thể nghiệt ngã và đảo điên hơn:
 
Cô gái Việt Nam ơi!
Từ thuở sơ sinh lận đận rồi
Tôi biết tình cô u uất lắm
Xa nhau đành chỉ nhớ nhau thôi
[..]
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi
(“Cảm xúc”, Hồ Dzếnh)
 
Tài liệu tham khảo:
  1. https://www.facebook.com/watch/?v=1263335928184744
  2. https://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=126&rb=06
  3. Tạ Chí Đại Trường, (2004). Sử Việt đọc vài quyển, Văn Mới. California, trang 30-31
  4. Nguyễn Khải (2020), Một người Hà Nội, Nhà xuất bản Văn Học, trang 46-53

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.