Hôm nay,  

Vì Một Thế Giới Bao Dung, Bình An

31/01/202500:00:00(Xem: 4319)
Hình lớn trang nhất_istockphoto
“Đôi khi chúng ta mong chờ phép lạ để thế giới hòa bình. Thế rồi nhiều người trong chúng ta cầu nguyện.”  Ảnh: istockphoto.
Tháng đầu tiên của năm 2025 đang trôi qua. Nhiều câu hỏi đang hiện ra trên các trang báo. Thế giới có thể sẽ bình an hơn? Dân tộc Palestine có thể sẽ được phép cho lập quốc? Ukraine có thể đã tới gần ngày ngưng bắn? Biển Đông sẽ ngưng sóng gió? Cuộc chiến Đài Loan sẽ thoát được? Nam Hàn và Bắc Hàn sẽ làm hòa với nhau? Chúng ta không mong đợi phép lạ hiện ra cho thế giới này, chỉ mong đợi năm 2025 đỡ bất an hơn. Nếu không chấp nhận những dị biệt của nhau, để cởi mở với những tư tưởng đa nguyên hơn, thế giới này sẽ cứ mãi bất an.

Nỗi lo lớn nhất của nhân loại là chiến tranh. Lời chúc cần thiết nhất cho nhân loại hiển nhiên phải là hòa bình, bởi vì trong mấy năm qua, tuy chưa nổ trái bom hạt nhân nào, mà hầu hết các nơi ở Gaza và Ukraine đã trở thành gạch vụn. Đó là chưa kể tới thiệt hại về nhân mạng, khi một người chết đi, là một gia đình đau đớn, và cả một cộng đồng lay chuyển.

Đôi khi chúng ta mong chờ phép lạ để thế giới hòa bình. Thế rồi nhiều người trong chúng ta cầu nguyện. Mà phép lạ trong cõi này thường là tin giả, do bên này hay bên kia phóng ra. Vì nếu có phép lạ để chiến tranh biến mất được thì chuyện đó đã xảy ra trên cõi này từ lâu rồi. Phép lạ kiểu đó lại là điểu khả nghi nhất trong vũ trụ này, bởi vì chiến tranh đã xuất hiện trên địa cầu từ nhiều ngàn năm trước, dù là lúc đó vũ khí chỉ là gậy gộc, gạch đá. Thậm chí, ngay tới các tôn giáo cùng thờ một Thượng đế cũng có thể xảy ra thánh chiến. Ngay cả tới Myanmar, nơi đa số người dân sùng mộ tôn giáo hòa bình nhất thế giới là Phật giáo cũng rồi bùng nổ nội chiến. Khi lòng mình chưa bình an, lấy đâu ra một thế giới bình an?

Tuy nhiên, tại sao lại không thể ước mơ về một phép lạ cho cõi này bình an hơn? Mỗi ngày, tôi ngồi dịch tin thế giới, tự thấy rất nhiều ngày lòng mình trĩu nặng. Bom càng lúc càng tàn phá dữ dội. Chết nhiều quá. Không chỉ lính, mà trẻ em chết cũng vô số kể ở Gaza. Đôi khi, tôi ước mơ rằng, hãy hình dung tới một phép lạ: nhiều triệu chiến binh đang chiến đấu, phục kích nhau, chĩa mũi súng vào nhau, nơi các chiến trường Gaza, Syria, Ukraine, Myanmar... Bỗng nhiên có một khoảnh khắc nào đột nhiên tất cả cùng tỉnh ngộ, cùng buông súng. Mỗi chiến binh lúc đó, mỗi người rút ra tờ giấy và cây bút, cùng ngồi vào bàn làm một bài thơ để mừng ngày buông súng. Tại sao làm thơ? Tôi mường tượng như kiểu nhà thơ Pablo Neruda, người từng viết rằng: “Thơ là một hành động của hòa bình. Hòa bình là chất liệu để làm nên một nhà thơ, y như bột làm nên bánh mì.”  (Poetry is an act of peace. Peace goes into the making of a poet as flour goes into the making of bread.)

Nếu xảy ra chuyện như thế, hãy hình dung thế này: cả triệu chiến binh sau khi quăng súng, làm xong bài thơ mừng ngày buông súng, liền lấy trang thơ đó xếp làm máy bay giấy, phóng vào nhau như thời trẻ nhỏ đi học. Nếu có chuyện như thế, hiển nhiên cõi này còn tuyệt hơn cả cõi thơ.

Nỗi lo chiến tranh trong tương lai gần là Đài Loan. Có thể Hoa Lục sẽ dấy binh để chiếm Đài Loan? Không ai có thể trả lời được điều gì. Người dân xứ con trời vốn say mê tử vi, toán số cũng không dám tiên đoán điều gì về một tương lai gần cho cuộc chiến nơi eo biển này.

Một cơ hội vàng cho nền dân chủ Trung Quốc đã bị vùi dập năm 1989, khi xe tăng tràn vào Thiên An Môn, dùng bạo lực vũ trang để đàn áp các sinh viên biểu tình vì họ mơ ước đưa Trung Quốc vào một chế độ đa nguyên hơn, cởi mở hơn, bình đẳng hơn, và pháp trị hơn. Tuổi trẻ Thiên An Môn 1989 lúc đó say sưa đọc những bài thơ về ước mơ dân chủ trong khi họ biểu tình. Trong đó, có ảnh hưởng lớn là nhà thơ Bei Dao. Khi những cuộc biểu tình ở Thiên An Môn bùng nổ, lúc đó Bei Dao (sinh năm 1949) đang dự hội nghị văn học ở San Francisco. Và bây giờ, trong những năm cuối đời, nhà thơ Bei Dao đang sống tại Hồng Kông, nơi ông giữ chức Giáo sư danh dự ngành Nhân văn tại Đại học Trung văn Hồng Kông (Chinese University of Hong Kong).

zz 2 nha tho Bei Dao
Nhà thơ Bei Dao
Một bài thơ nổi tiếng của Bei Dao được sinh viên đọc trong các cuộc biểu tình là bài “Câu trả lời” (The Answer), trong đó có những câu như nói thẳng với nhà cầm quyền Bắc Kinh là nhà thơ sẵn sàng đứng về phía những người bị giày đạp dưới chân bạo lực:

Thế giới, hãy để tôi nói cho bạn biết
Tôi—không—tin!
Nếu một ngàn kẻ thách thức nằm dưới chân bạn,
Hãy coi tôi là người số một nghìn lẻ một.
 
Một bài thơ khác của Bei Dao cũng được nhiều sinh viên học thuộc lòng là bài “Tuyên ngôn” (Declaration). Chai Ling (sinh năm 1966) là một trong các lãnh đạo sinh viên trong cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Khi biểu tình bị đàn áp, và bản thân bị truy bắt, cô Chai Ling trốn sang Hồng Kông và sau đó trốn sang Pháp. Chai Ling kể lại trong phim tài liệu Gate of Heavenly Peace, cô đã chứng kiến ​​cảnh binh lính giết chết những sinh viên biểu tình bên trong Quảng trường Thiên An Môn.

Trả lời phỏng vấn của các đài truyền hình nước ngoài sau khi trốn thoát khỏi Trung Quốc, thủ lĩnh sinh viên biểu tình Chai Ling đã chứng minh ảnh hưởng của tác phẩm Bei Dao khi cô trích dẫn bài thơ "Tuyên ngôn" của Bei Dao:

Tôi sẽ không quỳ gối trên mặt đất
để những kẻ hành quyết trông cao lớn
để che khuất ngọn gió tự do.
 
Một năm sau, một nhà thơ Đài Loan đã kể về những cuộc trấn áp trong Hoa Lục, nơi các bức tường đều có tai, có mắt. Nhà thơ Chen Li (sinh năm 1954), sinh ra và lớn lên tại Hoa Liên, một thành phố nhỏ ở bờ biển phía đông Đài Loan, viết trong bài thơ “Bức Tường” (The Wall) năm 1990 với những dòng ghi về thân phận con người bị bao vây bởi các bức tường có tai, có mắt, trích:

Nó nghe chúng ta khóc.
Nó nghe chúng ta thì thầm.
Nó nghe thấy chúng ta xé giấy dán tường,
lo lắng tìm giọng nói của những người thân đã khuất—
những hơi thở, tiếng ngáy và tiếng ho dữ dội,
mà chúng ta chưa bao giờ nghe thấy.
Bức tường có tai.
Bức tường là một máy ghi âm câm.
 
Chiến tranh gay gắt nhất trong năm 2024 là ở Gaza và Ukraine. Cuộc chiến giữa Palestine và Israel đã kéo dài gần cả thế kỷ, và có vẻ như sẽ bất tận, sẽ kéo tới cả ngàn năm, nếu nhân loại vẫn cứ kẹt vào phân biệt tôn giáo, sắc tộc, lãnh thổ.

Một nhà thơ Israel đã kêu gọi hòa bình Trung Đông từ vài thập niên trước, khi ông còn sinh tiền, vậy mà bây giờ bom đan càng lúc càng tàn phá khốc liệt hơn thời xưa. Nhà thơ Yehuda Amichai (1924-2000) là một trong những nhà thơ quan trọng nhất của Israel. Thơ Amichai xuất hiện trong thời kỳ hậu Holocaust, một giai đoạn tái thiết quốc gia và tự kiểm tra mạnh mẽ ở Israel, thường có đề tài về tình yêu, mất mát, hòa bình, đức tin và sự phức tạp của cuộc sống hàng ngày ở Israel.  

zz 3 nha tho Amichai
Nhà thơ Yehuda Amichai 
Bài thơ “The Diameter of the Bomb” (Đường Kính của Quả Bom) của Yehuda Amichai có những dòng sau:

Đường kính của quả bom là ba mươi centimet
và đường kính công phá của nó khoảng bảy mét,
với bốn người chết và mười một người bị thương.
Và xung quanh những thứ này, trong một vòng tròn lớn hơn
của nỗi đau và thời gian, hai bệnh viện nằm rải rác
và một nghĩa trang...
 
Nơi phía bên kia, phía của Palestine, những người mất lãnh thổ, có một nhà thơ trẻ hơn: Naomi Shihab Nye (sinh năm 1952), một người Mỹ gốc Ả Rập. Cô Naomi Shihab Nye có cha là người Palestine và mẹ là người Mỹ. Trong bài thơ “Arabic” (Tiếng Ả Rập), có những dòng sau đây:

Người đàn ông với đôi mắt biết cười ngừng cười
để nói, “Cho đến khi bạn nói tiếng Ả Rập,
bạn sẽ không hiểu được nỗi đau.”
 
Đối với người Nhật Bản, con chim hạc là một biểu tượng hòa bình. Và người dân Nhật tin rằng khi bạn xếp được một ngàn con hạc giấy, bạn sẽ có một lời ước được hình thành. Cuốn tiểu thuyết “Sadako and the Thousand Paper Cranes” (Sadako và Một Ngàn Con Hạc Giấy) là chuyện về một ước mơ như thế. Đây là một tiểu thuyết lịch sử dành cho trẻ em do nhà văn Eleanor Coerr, người Mỹ gốc Canada, viết theo lời kể và xuất bản năm 1977.

zz 4 Sadako and Thousand Cranes
Truyện dựa trên câu chuyện có thật về Sadako Sasaki, một nạn nhân của vụ dội bom nguyên tử ở Hiroshima, Nhật Bản trong Thế chiến II. Cô bé Sadako quyết tâm xếp một nghìn con hạc giấy khi đang hấp hối vì bệnh bạch cầu do bức xạ từ quả bom gây ra. Cuốn sách đã được dịch sang nhiều thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nơi, để sử dụng cho các chương trình giáo dục hòa bình ở các trường tiểu học.

zz 1 students cranes for peace

Xếp giấy hình chim hạc để cầu nguyện cho hòa bình. (Hình Bing AI)

 
Sau khi được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu do bức xạ từ vụ đánh bom nguyên tử ở Hiroshima, bạn của Sadako đã bảo cô gấp hạc giấy theo nghệ thuật origami với hy vọng sẽ xếp được một ngàn con hạc. Cô lấy cảm hứng từ truyền thuyết Nhật Bản rằng bất kỳ ai tạo ra một ngàn con hạc giấy origami sẽ được ban cho một điều ước. Điều ước của cô chỉ đơn giản là sống sót sau căn bệnh của mình để có thể thực hiện ước mơ được tham gia nhóm chạy thể thao. Trong câu chuyện kể lại trong tiểu thuyết này, cô chỉ gấp được 644 con hạc trước khi quá yếu để gấp thêm nữa, và cô qua đời trong giấc ngủ vào sáng ngày 25/10/1955. Bạn bè và gia đình đã giúp cô hoàn thành ước mơ bằng cách gấp nốt số chim hạc còn lại, và các chim hạc giấy này được chôn cùng cô Sadako.

Nhưng đời lúc nào cũng bất toàn. Truyện bị cho là không hoàn toàn đúng như ngoài đời. Cuốn tiểu thuyết của Coerr ghi rằng cô Sadako "đã chết trước khi hoàn thành 1000 con hạc giấy, và hai người bạn của cô đã hoàn thành nhiệm vụ, đặt những con hạc đã hoàn thành vào quan tài của cô" đã bị những thành viên còn sống trong gia đình cô phản đối. Theo gia đình cô, và đặc biệt là anh trai cô Masahiro Sasaki, người đã nói về cuộc đời của em gái mình tại các buổi nói chuyện về bom nguyên tử và hòa bình sau đó, Sadako không chỉ gấp được 644 con chim hạc mà còn vượt qua mục tiêu 1.000 con và qua đời sau khi gấp được khoảng 1.450 con hạc giấy. Trong cuốn sách The Complete Story of Sadako Sasaki (2018) đồng sáng tác với Sue DiCicco, người sáng lập Dự án Peace Crane, anh Masahiro cho biết Sadako đã vượt qua mục tiêu của mình.

Thế mới biết, cõi này luôn luôn có chuyện bất ổn. Tại sao tiểu thuyết phải có một cốt truyện hư vỡ, phải cho thấy chuyện xếp hạc giấy là công trình dở dang? Thực tế, cõi này bất an, ngay cả trong tiểu thuyết cũng phải bất an khốc liệt như đời thường. Nếu bạn nhớ lại, ngay trong giáo đoàn thời Đức Phật cũng có lúc chia phe, rồi tranh cãi, không giữ được hòa hài.

Kinh Pháp Cú Tích Truyện kể rằng trong khi trú ngụ tại khu rừng Palileyya nơi con voi Palileyyaka hầu hạ Ngài, Đức Phật đã đọc những bài kệ (328), (329) và (330) của Pháp Cú, liên quan đến các Tỳ kheo từ Kosambi. Một lần, các nhà sư ở Kosambi chia thành hai nhóm; một nhóm theo vị thầy về Giới Luật (Vinaya) và nhóm kia theo vị thầy thiên về Giáo pháp (Dhamma). Họ không chịu hài hòa với nhau. Họ cũng không chịu nghe lời Đức Phật khuyên họ hãy làm hòa với nhau. Vì vậy, Đức Phật đã rời bỏ họ và trải qua mùa an cư một mình trong rừng, nơi con voi Palileyyaka hầu hạ Ngài.

Vào cuối mùa an cư, Tôn giả Ananda đi vào rừng, cùng với năm trăm Tỳ kheo. Để các Tỳ kheo ở một khoảng cách xa, Đức Tôn giả Ananda đến gần Đức Phật một mình. Sau đó, Đức Phật bảo Ananda gọi các Tỳ kheo khác. Tất cả mọi người đều đến, cúi chào Đức Phật và nói, "Thưa Đức Phật! Ngài hẳn đã phải rất vất vả khi trải qua mùa an cư một mình trong khu rừng này."

Đáp lại, Đức Phật trả lời, "Các Tỳ kheo, đừng nói như vậy; con voi Palileyyaka đã chăm sóc ta suốt thời gian qua. Quả thực, nó là một người bạn rất tốt, một người bạn thực sự. Nếu một người có một người bạn tốt như vậy, người đó nên gắn bó với nó; nhưng nếu không tìm được một người bạn tốt thì tốt hơn là nên ở một mình."

Hình 3

Phan Tấn Hải và ban biên tập Việt Báo kính chúc quý độc giả, quý thân chủ một năm mới Ất Tỵ an vui, thành đạt.

 
Thấy đó. Nếu bạn thấy những chuyện bất hòa xảy ra nơi này, nơi kia, thì hãy nhớ về câu chuyện một giáo đoàn tu để an tâm, vậy mà cũng có lúc bất hòa nhau. Thế rồi tới những chuyện khác hơn. Những dị biệt giữa sắc tộc này với sắc tộc kia, giữa đất nước này với đất nước kia... Chỉ hy vọng rằng thế giới này sẽ bớt bất hòa.

Hay là, phải chờ phép lạ: các chiến binh trên thế giới rủ nhau ngồi xuống, lấy giấy mực ra làm thơ. Tuy nhiên, trở ngại vẫn còn lớn lao: rào cản ngôn ngữ giữa tiếng Ả Rập và tiếng Do Thái. Và rào cản giữa tiếng Nga và tiếng Ukraine. Hay là, các chiến binh sẽ rủ nhau ngồi xếp giấy một người một ngàn con chim hạc? Hãy cứ ước mơ, phải không bạn. Năm 2025 sẽ tha hồ cho những con chim hạc giấy cất cánh...

Phan Tấn Hải
 

Ý kiến bạn đọc
31/01/202517:28:57
Khách
Đọc bài này, anh viết vào đầu năm Tết... thật quý! Những sự tích về thơ cho một thế giới hòa bình mang nội dung quá xâu sắc. Hòa bình, mọi người đều mong đợi liệu sẽ trở thành sự thật? Người ta bảo chất thơ mềm yếu như gió thoảng mây trôi nhưng cũng có kẻ lại vịn vào thơ mà đứng dậy như Phùng Quán. Cầu mong các chiến binh cùng gác súng vịn vào thơ cho thế giới này tốt đẹp hơn. Có người cũng đang nghĩ "thơ thẩn" như anh.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót. Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza... Nhìn thấy những hình ảnh kinh hoàng này, chúng ta mới nhớ rằng cả ngàn năm trước cũng đã có những cuộc chiến hoặc giành đất, hoặc thánh chính. Thời đó chưa có phi cơ, xe tăng, đại bác, súng... Và các chiến binh phải đi bộ, đi ngựa ngàn dặm để cầm gươm
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)
Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.” Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ? Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”
Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi. Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025
László Krasznahorkai – nhà văn Hungary vừa được trao giải Nobel văn chương – nổi tiếng với những câu văn dài như một hơi thở kìm nén, nơi ý tưởng đi qua địa ngục mà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh của thiên thần. Một thiên thần lướt trên chúng ta là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy: giữa bùn lầy chiến hào và tiếng pháo rít xé trên đầu, một người lính cụt chân, mắt mờ, lại giảng về văn minh số, về văn hóa như bản năng sinh tồn của loài người. Chiến tranh vẫn gầm thét, nhưng lời anh vẫn tuôn, dài, sáng, và lạ thay – đầy hy vọng. Bản Việt ngữ của Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của John Batki, giữ nguyên nhịp câu, những đoạn văn dài như dòng suy tưởng không dứt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.