Hôm nay,  

Trật tự thế giới thay đổi thế nào?

11/04/202500:00:00(Xem: 2530)
 
trat tu the gioi  
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc.
 
Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
 
Trong ngôn ngữ hàng ngày, trật tự đề cập đến sự sắp xếp ổn định của các đề mục, chức năng hoặc các mối quan hệ. Vì vậy, trong các vấn đề nội bộ, chúng ta nói về một "xã hội có trật tự" và chính phủ của nó. Nhưng trong các vấn đề quốc tế, không có chính phủ bao quát. Với sự sắp xếp giữa các quốc gia luôn bị thay đổi, theo một nghĩa nào đó thế giới là tình trạng "vô chính phủ".
 
Tuy nhiên, tình trạng vô chính phủ không giống như hỗn loạn. Trật tự là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian. Trong các vấn đề nội bộ, một chính thể ổn định có thể tồn tại bất chấp một mức độ bạo lực không được kiểm soát. Rốt cuộc, tội phạm bạo lực có tổ chức và không có tổ chức vẫn là một thực tế của sinh hoạt ở hầu hết các quốc gia. Nhưng khi bạo lực đạt đến mức quá cao, nó được coi là dấu hiệu của một "nhà nước thất bại". Somalia có thể có một ngôn ngữ và sắc tộc chung, nhưng từ lâu nó đã là nơi chiến đấu của các gia tộc; chính phủ "quốc gia" ở Mogadishu có rất ít quyền lực bên ngoài thủ đô.
 
Max Weber, nhà xã hội học người Đức, đã nổi danh khi định nghĩa nhà nước hiện đại là một thể chế chính trị độc quyền về việc sử dụng vũ lực hợp pháp. Nhưng sự hiểu biết của chúng ta về thẩm quyền hợp pháp dựa trên các ý tưởng và chuẩn mực có thể thay đổi. Do đó, một lệnh hợp pháp bắt nguồn từ các phán đoán về sức mạnh của các chuẩn mực, cũng như các mô tả đơn giản về số lượng và bản chất của bạo lực trong một quốc gia.
 
Khi nói đến trật tự thế giới, chúng ta có thể đo lường những thay đổi trong việc phân phối quyền lực và tài nguyên, cũng như tuân thủ các chuẩn mực mà nó thiết lập tính hợp pháp. Chúng ta cũng có thể đo lường tần suất và cường độ của xung đột bạo lực.
 
Sự phân phối ổn định về quyền lực giữa các quốc gia thường liên quan đến các cuộc chiến mà nó làm rõ sự cân bằng quyền lực được nhận thức. Nhưng các quan điểm về tính hợp pháp của chiến tranh đã phát triển theo thời gian. Ví dụ, ở châu Âu thế kỷ XVIII, khi Đại đế Phổ Frederick muốn chiếm tỉnh Silesia từ nước láng giềng Áo, ông chỉ đơn giản là chiếm lấy nó. Nhưng sau Thế chiến II, các quốc gia đã thành lập Liên Hiệp Quốc, chỉ định nghĩa các cuộc chiến tranh tự vệ là hợp pháp (trừ khi được Hội đồng Bảo an cho phép).
 
Chắc chắn, khi Tổng thống Nga Vladimir Putin xâm lược và chiếm đóng lãnh thổ Ukraine, ông tuyên bố rằng đang hành động để tự vệ chống lại sự bành trướng về phía đông của khối NATO. Nhưng hầu hết các thành viên Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu lên án hành vi của ông, và những thành viên không lên án - như Trung Quốc, Triều Tiên và Iran - chia sẻ lợi ích của ông trong việc đối trọng sức mạnh của Mỹ.
 
Trong khi các quốc gia có thể khiếu nại các quốc gia khác tại các tòa án quốc tế, các tòa án này không có khả năng thực thi các quyết định của họ. Cũng tương tự như vậy, trong khi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc có thể ủy quyền cho các quốc gia thực thi an ninh tập thể, họ hiếm khi làm như vậy. Năm thành viên thường trực (Anh, Trung Quốc, Pháp, Nga và Hoa Kỳ) đều có quyền phủ quyết, và họ không muốn mạo hiểm một cuộc đại chiến. Quyền phủ quyết hoạt động giống như cầu chì hoặc cầu dao trong hệ thống điện: tốt hơn là tắt đèn hơn là để ngôi nhà bị thiêu rụi.
 
Hơn nữa, một trật tự thế giới có thể trở nên mạnh hơn hoặc yếu hơn vì những thay đổi công nghệ mà nó làm thay đổi sự phân phối sức mạnh quân sự và kinh tế; những thay đổi xã hội và chính trị trong nước làm thay đổi chính sách đối ngoại của một cường quốc; hoặc các lực lượng xuyên quốc gia như ý tưởng hoặc phong trào cách mạng, có thể lan rộng ngoài tầm kiểm soát của chính phủ và thay đổi nhận thức của công chúng về tính hợp pháp của trật tự đang thịnh hành.
 
Ví dụ, sau Hòa ước Westphalia năm 1648 mà nó kết thúc các cuộc chiến tranh tôn giáo ở châu Âu, nguyên tắc chủ quyền quốc gia đã được ghi nhận trong trật tự thế giới quy tắc. Nhưng ngoài những thay đổi trong các nguyên tắc hợp pháp là những thay đổi trong việc phân phối các nguồn lực. Vào thời điểm Thế chiến thứ nhất, Mỹ đã trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, nó cho phép Mỹ quyết định kết quả của cuộc chiến bằng cách can thiệp quân sự. Mặc dù Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson đã cố gắng thay đổi trật tự quy tắc với Hội Quốc Liên của mình, nội chính Hoa Kỳ đã đẩy đất nước đến chủ thuyết biệt lập, điều này cho phép các cường quốc phe Trục cố gắng áp đặt trật tự của riêng họ vào những năm 1930.
 
Sau Thế chiến thứ hai, Mỹ chiếm một nửa nền kinh tế thế giới, nhưng sức mạnh quân sự của Mỹ được Liên Xô cân bằng, và sức mạnh về luật pháp của Liên Hiệp Quốc còn yếu. Với sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991, Mỹ đã tận hưởng một "khoảnh khắc đơn cực" ngắn ngủi, chỉ để mở rộng quá mức ở Trung Đông, trong khi cho phép tình trạng quản lý tài chính sai lạc mà đỉnh điểm là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Tin rằng Mỹ đang suy thoái, Nga và Trung Quốc đã thay đổi chính sách của riêng họ. Putin đã ra lệnh xâm lược nước láng giềng Georgia, và Trung Quốc đã thay thế chính sách đối ngoại thận trọng của Đặng Tiểu Bình bằng phương cách quyết đoán hơn. Trong khi đó, tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Trung Quốc cho phép họ thu hẹp khoảng cách quyền lực với Mỹ. So với Trung Quốc, sức mạnh của Mỹ đã suy giảm; nhưng tỷ trọng của Mỹ trong nền kinh tế thế giới vẫn ở mức khoảng 25%. Cho đến chừng nào mà Mỹ còn duy trì liên minh mạnh mẽ với Nhật Bản và châu Âu, họ sẽ đại diện cho hơn một nửa nền kinh tế thế giới, so với chỉ 20% của Trung Quốc và Nga.
 
Liệu chính quyền Trump có duy trì nguồn lực duy nhất của nước Mỹ không, hay Kallas có lý khi chúng ta đang ở một bước ngoặt? Các năm 1945, 1991 và 2008 cũng là những bước ngoặt. Nếu các nhà sử học tương lai thêm năm 2025 vào danh sách, đó sẽ là kết quả của chính sách của Mỹ - một vết thương tự gây ra - chứ không phải bất kỳ sự phát triển thế tục nào không thể tránh khỏi.
 
Đỗ Kim Thêm dịch 
 
Nguồn, bài của Joseph S. Nye, Jr* đăng trên trang mạng Project – Syndicate
 
Joseph S. Nye, Jr., Giáo sư hồi hưu Đại học Harvard, cựu Hiệu trưởng Trường Harvard Kennedy, cựu Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ và là tác giả Do Morals Matter? Presidents and Foreign Policy from FDR to Trump (NXB Đại học Oxford, 2020) và A Life in the American Century (NXB Polity Press, 2024).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.