Hôm nay,  

Aphantasia: Hội Chứng Thiếu Khả Năng Hình Dung Hình Ảnh Trong Đầu

27/06/202500:00:00(Xem: 747)

trang thai vo hinh
Không phải ai cũng có thể “nhìn thấy” hình ảnh trong tâm trí. Aphantasia là tình trạng một người không thể hình dung ra hình ảnh, dù trí tưởng tượng và suy nghĩ của họ vẫn bình thường. (Nguồn: pixabay.com)

Hãy thử nhắm mắt lại và hình dung một trái táo.
 
Quý vị thấy gì? Màu đỏ chín mọng hay màu xanh óng ánh? Trái táo nằm trên bàn, đang lơ lửng trong không khí hay được ai đó cầm trên tay?
 
Nếu đã cố gắng mà chỉ thấy một khoảng không vô định, rất có thể quý vị đang trải qua một tình trạng đặc biệt có tên là aphantasia – hội chứng mất khả năng hình dung hình ảnh trong tâm trí. Dù mới được đặt tên gần đây, hiện tượng này đang mở ra những hiểu biết mới mẻ về sự đa dạng trong cách não bộ con người hoạt động và ghi nhớ thế giới.
 
Khi tâm trí “tối đen”
 
Những người mắc chứng aphantasia – còn gọi là aphants – nói rằng họ không thể “nhìn thấy” hình ảnh trong tâm trí mình. Dù họ vẫn suy nghĩ, vẫn sáng tạo và tưởng tượng, nhưng trong đầu họ không có hình ảnh hiện ra như những người khác.
 
Câu chuyện bắt đầu từ 25 năm trước, khi Giáo sư Adam Zeman, chuyên gia về thần kinh tri trí và hành vi, đang công tác tại Đại học Exeter. Ông gặp một trường hợp đặc biệt: một người đàn ông từng có trí tưởng tượng sống động, nhưng sau một ca phẫu thuật tim, anh ta không thể tưởng tượng được nữa. Điều này khiến Zeman vô cùng bất ngờ, và mở ra hướng nghiên cứu về cách não bộ con người dựng nên hình ảnh tưởng tượng.
 
Khi được công bố vào năm 2010, nghiên cứu của Zeman đã thu hút rất nhiều sự chú ý. Điều bất ngờ là nhiều người không phải là bị mất khả năng hình dung như bệnh nhân, mà nhờ vào phần mô tả chi tiết trong nghiên cứu, họ mới chợt nhận ra rằng bản thân chưa từng có khả năng hình dung ra hình ảnh trong tâm trí – điều mà họ chưa bao giờ nghĩ đến trước đây.
 
Zeman kể lại: “Trong những năm sau đó, nhiều người bắt đầu liên lạc và nói rằng họ giống hệt như [bệnh nhân kia], nhưng tình trạng này đã tồn tại từ nhỏ.” Ông quyết định đưa 21 người vào một nghiên cứu tiếp theo và dùng một phiên bản cải biến của từ phantasia (nghĩa là “hình dung” trong tiếng Hy Lạp cổ) để đặt tên cho hiện tượng: aphantasia – tức là không có ký ức bằng hình ảnh (no visual memory).
 
Khoa học vào cuộc
 
Các nghiên cứu ban đầu về aphantasia chủ yếu dựa trên khảo sát và lời tự thuật, nhưng phương pháp nghiên cứu này thường bị công chúng hoài nghi. Christian Scholz, nghiên cứu sinh tại Đại học Ruhr Bochum (Đức), cho rằng vẫn có nhiều người không tin rằng có sự khác biệt thực sự về khả năng tưởng tượng, mà cho rằng mọi chuyện chỉ là do mỗi người có cách nói khác nhau về trải nghiệm của mình.
 
Nhiều người nghĩ là ‘Thì cũng chỉ là cách mô tả khác nhau thôi mà’,” Scholz nói. Và thường, những người có trí tưởng tượng phong phú, mạnh mẽ lại càng khó tin rằng người khác không làm được giống họ.
 
Tuy nhiên, khoa học đã bắt đầu đưa ra những bằng chứng rõ ràng. Zeman nhắc lại một nghiên cứu năm 2022: “Khi bạn nhìn vào Mặt trời, đồng tử co lại. Nếu bạn tưởng tượng nhìn vào Mặt trời, đồng tử cũng sẽ co lại. Nhưng điều đó không xảy ra ở những người mắc aphantasia.
 
Một nghiên cứu năm 2021 gắn cảm biến lên đầu ngón tay người tham gia để đo phản ứng cảm xúc. Một nhóm được cho nghe truyện kinh dị, nhóm còn lại được cho xem hình ảnh đáng sợ. Khi nghe một truyện ma, nhóm bị aphantasia không có phản ứng sợ hãi, trong khi nhóm kiểm soát (control group) thì có. Nhưng khi xem hình ảnh rùng rợn, cả hai nhóm đều phản ứng giống nhau. Phát hiện này khiến các nhà nghiên cứu tin rằng chính hình ảnh hiện lên trong trí óc là yếu tố quyết định liệu người nghe có “cảm nhận” được nội dung hay không.
 
Đầu năm nay, một nghiên cứu sử dụng công nghệ MRI đã ghi nhận hoạt động tại vùng thị giác của não bộ. Phát hiện cho thấy ở người mắc aphantasia, khả năng hình dung vẫn tồn tại, nhưng ở mức quá yếu khiến não bộ không thể diễn giải thành hình ảnh rõ ràng.
 
Theo Zeman, ở người có trí tưởng tượng mạnh mẽ quá độ (hyperphantasia), các vùng não trước trán và vùng thị giác phía sau đầu kết nối với nhau rõ ràng hơn nhiều so với người aphantasia.
 
Một cách ghi nhớ khác biệt
 
Sarah Shomstein, giáo sư chuyên ngành tâm lý học và khoa học thần kinh tại Đại học George Washington, khẳng định rằng aphantasia không phải là tàn tật, mà là một kiểu hoạt động khác biệt của não bộ. Theo bà, nghiên cứu về hiện tượng này có thể giúp chúng ta hiểu thêm về cách con người cảm nhận và tưởng tượng thế giới.
 
Shomstein cho biết: “Không có gì hư hại cả, cũng không có sự thiếu hụt nào. Đó chỉ là một kiểu hoạt động khác của não bộ, liên quan đến cách các nơ-ron kết nối hoặc phản ứng với kích thích. Có thể đó là một hướng thích nghi, mà cũng có thể không phải.
 
Bà cũng cho rằng não bộ của aphants có thể đang tiết kiệm năng lượng bằng cách bỏ qua con đường thị giác trong quá trình tiếp nhận và giải quyết thông tin. Điều đó không có nghĩa là họ không cảm nhận gì, mà chỉ là họ cảm nhận theo cách riêng. Nếu đây là một hướng tiến hóa, có thể trong tương lai sẽ có nhiều người mang đặc điểm này hơn.
 
Chính Shomstein cũng phát hiện mình mắc aphantasia qua “bài kiểm tra quả táo.” Điều thú vị là phát hiện này đến rất muộn, khi bà đã có bằng Tiến sĩ về khoa học thần kinh nhận thức, và đã nhiều năm bác bỏ khái niệm “aphantasia” vì cho rằng đó là điều bịa đặt, thiếu cơ sở.
 
Nhưng không vì thế mà Shomstein, hay những người mắc aphantasia khác, thiếu trí tưởng tượng. Bà chia sẻ: “Tôi vẫn có thể tưởng tượng ra mọi thứ, vẫn tạo dựng được những ý tưởng rất chi tiết. Chỉ là chúng không hiện lên như một bức tranh. Với tôi, trong đầu là một khoảng tối, nhưng ý tưởng thì vẫn rõ ràng, tôi vẫn cảm nhận và ‘hình dung’ chúng theo cách của riêng mình.
 
Những tâm trí độc đáo gặp nhau
 
Zeman cho rằng hàng triệu người trên thế giới đang sống với aphantasia. Vậy tại sao chúng ta hiếm khi nghe đến hiện tượng này?
 
Thật ra, tuy khái niệm “aphantasia” chỉ mới được đặt tên từ năm 2015, nhưng từ hàng trăm năm trước, các khoa học gia đã từng nỗ lực tìm cách lý giải sự khác biệt trong khả năng cảm nhận và ghi nhớ của con người. Năm 1880, nhà tâm lý học nổi tiếng Francis Galton từng phát bảng hỏi khảo sát cho 100 người đàn ông, và ông nhận thấy 12 người trong số đó hoàn toàn không thể hình dung ra chiếc bàn ăn của mình.
 
Một trường hợp khác là bác sĩ W.H.R. Rivers, từng điều trị cho thương binh trong Thế Chiến I, cũng không thể tưởng tượng ra hình ảnh, và cho rằng mất khả năng này đã bị mất từ nhỏ, sau một sự việc đau lòng trong gia đình.
 
Mặc dù trước đây đã có những mô tả cá nhân về “hiện tượng không thể hình dung ra hình ảnh,” nhưng vào thời điểm đó, không có nghiên cứu khoa học chính thức nào xác nhận lại những điều này. 
 
Tom Ebeyer, người sáng lập cộng đồng Aphantasia Network và cũng là người mắc aphantasia bẩm sinh, cho rằng tình trạng này bị phớt lờ suốt nhiều năm vì không có bằng chứng rõ ràng cho thấy nó ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống con người.
 
Trên trang web của Aphantasia Network, hàng ngàn người đã làm bài thăm dò để đo mức độ hình dung trong tâm trí, giúp họ hiểu rõ bản thân và góp phần cung cấp dữ liệu cho các nghiên cứu lớn hơn.
 
Theo Ebeyer, trong số hơn 60,000 thành viên của cộng đồng, nhiều người vẫn trở thành họa sĩ, kiến trúc sư, nhà văn (những ngành đòi hỏi khả năng tưởng tượng cao). Cả người mắc aphantasia lẫn người bình thường đều có thể nhận ra gương mặt người quen và ghi nhớ đường đi ở các nơi thường lui tới.
 
Một nơi khác mà những người mắc aphantasia thường tìm đến là diễn đàn Reddit /r/Aphantasia – cộng đồng với hơn 70,000 thành viên đang tích cực chia sẻ kinh nghiệm cá nhân và thảo luận về các nghiên cứu mới nhất liên quan đến tình trạng này.

Mình luôn nghĩ mấy câu như ‘đếm cừu để dễ ngủ’ hay ‘hình dung khán giả khỏa thân’ chỉ là nói cho vui, chứ không ai thực sự tưởng tượng như thế,” một thành viên ẩn danh cho biết.
 
Thành viên Megan Lee thì tâm sự: “Nếu không nhờ có Internet, có lẽ suốt đời mình cũng chẳng bao giờ nhận ra mình không giống mọi người.
 
Với một số người trong cộng đồng của Tom Ebeyer, điều khiến họ suy nghĩ nhiều là cảm giác như bị bỏ lỡ những ký ức đáng nhớ, bởi họ không thể nhớ lại ký ức một cách sinh động như những người khác.
 
Đó là chỗ khiến người ta cảm thấy rõ nhất sự khác biệt,” Ebeyer nói. “Người bình thường có thể nhớ lại cảnh cũ, thấy người thân trong tâm trí. Còn người mắc aphantasia thì không thể làm vậy.
 
Zeman đồng tình: “Các nghiên cứu mới cho thấy sự khác biệt rõ ràng nhất ở những người mắc aphantasia chính là trí nhớ về cuộc sống cá nhân của họ thường không rõ nét.
 
Cộng đồng người mắc aphantasia, những người không có hình ảnh trong tâm trí, đang cùng nhau tạo ra những cách diễn đạt phù hợp, để kể lại thế giới trong tâm trí của mình cho các khoa học gia.
 
Đây là một dạng khác biệt vô hình nhưng đầy cuốn hút,” Zeman kết luận. “Và điều đó nhắc nhở ta rằng: con người thường lấy cảm nhận của bản thân làm chuẩn, nhưng thật ra, mỗi người có thể đang sống trong một thế giới rất riêng.
 
Nguồn: “Can you picture an apple in your mind? If not, you might have this condition.” được đăng trên trang Nationalgeographic.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong cuộc sống hiện đại, hàng triệu người đang phải đối mặt với những phiền toái từ chứng ợ nóng (heartburn hay acid reflux), ngưng thở khi ngủ hay những cơn đau lưng dai dẳng. Có lẽ ít ai ngờ rằng, một thay đổi đơn giản trong thói quen hàng ngày – tư thế nằm ngủ – lại có thể giúp cải thiện đáng kể những tình trạng này. Raj Dasgupta, một chuyên gia uy tín trong lĩnh vực hô hấp và y học giấc ngủ tại Bệnh viện Huntington Memorial, California, cho biết: “So với nằm sấp hoặc nằm ngửa, tư thế nằm nghiêng đúng là mang lại nhiều lợi ích hơn, nhưng không phải ai cũng cần đến tư thế ngủ này. Nó chỉ thực sự hữu ích cho một số người.”
Một nhóm giáo sư và chuyên viên khảo cứu tại Đại học Chalmers (Gothenburg, Thụy Điển) cùng Đại học Auckland (Tân Tây Lan) vừa đạt được một thành quả đáng lưu ý trong lãnh vực y học: chế tạo được một thiết bị cấy ghép, có khả năng giúp chuột bị liệt do tổn thương tủy sống phục hồi được khả năng vận động. Theo lời Giáo sư Maria Asplund, trưởng nhóm nghiên cứu và là giáo sư điện tử sinh học tại Đại học Chalmers, phát minh này mang lại hy vọng chữa trị được cho hàng triệu người trên thế giới – những người vốn bị tàn tật do tai nạn hay bệnh tật làm tổn thương tủy sống, từ đó mất đi cảm giác và năng lực vận động.
Tháng 7 năm 2025, giới chức y tế tiểu bang Arizona xác nhận một trường hợp tử vong do dịch hạch thể phổi – dạng hiếm nhất nhưng cũng nguy hiểm nhất trong ba thể dịch hạch được biết đến. Dịch hạch từng gieo rắc kinh hoàng khắp Âu Châu thời Trung Cổ với cái tên "Cái Chết Đen" (Black Death), nhưng ngày nay số ca bệnh còn lại rất ít. Theo Cleveland Clinic, trung bình thế giới chỉ ghi nhận từ 1.000 đến 2.000 ca dịch hạch mỗi năm; riêng tại Hoa Kỳ, con số này vào khoảng bảy trường hợp.
Trong những năm gần đây, danh tiếng của Monosodium Glutamate (MSG), hay còn gọi là bột ngọt hoặc mì chính, đã dần được phục hồi. Từng bị cáo buộc là nguyên nhân của các triệu chứng như nhức đầu, tê rần và châm chích, tức ngực, khó thở, MSG đang dần được đón nhận trở lại. Hiện tại, bột ngọt đang có mặt trong một số loại đồ uống, bánh kẹo và cả các buổi giới thiệu gian bếp gia đình của những người có sức ảnh hưởng trên mạng xã hội.
Những tranh luận tưởng chừng đã khép lại từ nhiều năm trước lại bất ngờ bùng lên khi chất bảo quản (preservative) thimerosal – từng được sử dụng trong vắc-xin dành cho trẻ em – được đưa trở lại nghị trình của ủy ban cố vấn thuộc Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC). Câu chuyện bắt đầu tại buổi họp đầu tiên của Ủy ban cố vấn về Chủng ngừa (ACIP) thuộc CDC kể từ ngày 11 tháng 6, sau khi Bộ trưởng Y tế Robert F. Kennedy Jr. bất ngờ thay thế toàn bộ 17 thành viên cũ bằng 8 người do chính ông chỉ định. Phiên họp này diễn ra vào ngày 25-26 tháng 6 năm 2025, tập trung vào các loại vắc-xin phòng COVID-19, HPV, cúm mùa và các bệnh truyền nhiễm khác. Nhưng theo lịch trình mới được cập nhật, nội dung họp lần này còn bao gồm phần trình bày về chất bảo quản thimerosal, đồng thời bỏ phiếu về đề nghị tiếp tục sử dụng chất này trong các loại vắc-xin cúm.
Chích ngừa bệnh sởi đầu tiên được cấp phép vào năm 1963 và trở thành một phần của tổng hợp các loại vaccine sởi, quai bị và rubella, hay vaccine MMR, vào năm 1971. Ngày nay, vaccine ngừa bệnh thủy đậu đôi khi được kết hợp thành loại gọi là vaccine MMRV. Thông thường, trẻ em từ 12 đến 15 tháng sẽ được chích mũi đầu tiên vaccine ngừa bệnh sởi. Mũi thứ hai diễn ra trong độ tuổi từ 4 đến 6. Các chuyên gia khuyến khích trong thời gian dịch bệnh bùng phát, trẻ em nhỏ nên chích ngừa, như đợt bùng phát bệnh sởi đang diễn ra ở Hoa Kỳ, đã dẫn đến hơn 1.200 trường hợp, trong số đó là 750 ca nhiễm ở Texas. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, 95% các trường hợp xảy ra ở những người chưa được tiêm vaccine hoặc những người không rõ tình trạng chích ngừa.
Khi nhắc đến bọ ve (ticks), người ta thường nghĩ ngay tới những ký sinh trùng đáng sợ, lặng lẽ bám theo những bước chân dã ngoại cuối tuần hoặc những buổi dạo chơi công viên. Nỗi sợ đó không phải vô lý. Từ lâu, bọ ve đã là nguyên nhân truyền bệnh phổ biến nhất tại Hoa Kỳ trong nhóm bệnh có vật thể trung gian. Chúng hút máu từ nhiều loài động vật, hấp thu mầm bệnh rồi truyền sang người qua mỗi vết cắn. Có những bệnh nguy hiểm như Lyme, babesiosis và sốt Rocky Mountain – nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời, hậu quả sẽ khôn lường, thậm chí có thể tử vong.
Chắc hẳn quý vị đã đôi lần bắt gặp những quảng cáo từ các chuyên gia vật lý trị liệu về phương pháp điều trị nhức đầu và không khỏi băn khoăn: “Có hiệu quả thật không vậy?” Câu trả lời là: Có! Đã có khá nhiều nghiên cứu đáng tin cậy chứng minh rằng các liệu pháp vật lý trị liệu có thể hữu hiệu, đặc biệt là với những cơn nhức đầu liên quan đến vùng cổ.
Nếu từng nghe ai đó bảo rằng “bình tĩnh, hít một hơi sâu vào,” thì quý vị đừng vội nghĩ đó là lời khuyên vu vơ, sáo rỗng. Thực ra, khoa học đã chứng minh điều đó hoàn toàn đúng. Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc hít thở một cách có ý thức mang lại hàng loạt lợi ích, cả ngắn hạn lẫn lâu dài: từ cải thiện sức khỏe tim mạch, giảm bớt lo lắng, tinh thần sảng khoái hơn, đầu óc minh mẫn và giấc ngủ cũng sâu hơn.
Ngày nay, ung thư đại tràng (hay còn gọi là ung thư ruột già) không còn là căn bệnh của tuổi già nữa. Cứ 5 người được chẩn đoán thì có 1 người chưa đến 54 tuổi, đánh dấu mức tăng 11% trong nhóm tuổi này trong vòng hai thập niên qua. Tại sao căn bệnh này lại bùng phát sớm như vậy? Câu hỏi này đã làm đau đầu không ít bác sĩ và khoa học gia. Sau nhiều năm miệt mài tìm kiếm, giới chuyên gia từ lâu đã nghi ngờ colibactin, một loại độc chất do vi khuẩn E. coli và một số vi khuẩn khác sản sinh, có thể phá hủy DNA. Mới đây, một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature đã xác định mối liên quan rõ ràng giữa việc tiếp xúc với colibactin từ thuở nhỏ và nguy cơ mắc ung thư đại tràng ở những bệnh nhân dưới 40 tuổi.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.