Hôm nay,  

Bolero Và Tản Mạn Nhạc Vàng

04/10/202523:20:00(Xem: 804)
nhạc bolero
Ảnh: SBTNGo

1. Vũ điệu bolero ở Tây Ban Nha
Trong vòng nhiều thập niên, đã có một sự nhầm lẫn về nguồn gốc bolero. Tuy có cùng một tên gọi, nhưng chữ bolero lại thể hiện nhiều điều khác hẳn nhau.

Chữ bolero bắt nguồn là một vũ điệu truyền thống của Tây Ban Nha, khai sinh vào cuối thế kỷ 18. Còn tại Cuba, bolero là một trường phái âm nhạc ra đời vào cuối thế kỷ 19. Một bên là vũ điệu của vương triều Tây Ban Nha; còn bên kia là dòng nhạc dân gian đến từ Cuba.

Tại Tây Ban Nha, người đầu tiên định hình bolero như một điệu vũ hàn lâm là vũ sư Sebastián Lorenzo Cerezo. Nhờ Sebastián Lorenzo Cerezo mà vũ điệu bolero trở nên thịnh hành dưới triều vua Charles đệ tam (trị vì từ năm 1759 đến 1788). Theo các nhà nghiên cứu, về mặt ngữ vựng, bolero có lẽ xuất phát từ chữ “volero”, biệt danh của vũ sư Tây Ban Nha do mỗi lần biểu diễn các điệu nhảy, ông thường lả lướt tung bay như thể gót chân tha thướt nhẹ nhàng không bao giờ chạm đất. Vũ điệu hàn lâm theo nghi thức truyền thống của Tây Ban Nha, nói cho chính xác thì người ta nhảy điệu rumba trên nền nhạc bolero.

Bất cứ điệu vũ nào cũng cần có tiếng nhạc. Người đầu tiên sáng tác nhạc cho vũ điệu hàn lâm bolero là nghệ sĩ tây ban cầm cổ điển Fernando Ferandiere (1740-1816), mở đường sau này cho tác giả Manuel de Falla (1876-1946), một trong bốn gương mặt Tứ Quý của làng nhạc Tây Ban Nha. Lối sáng tác này sau đó gợi hứng cho nhiều nhà soạn nhạc cổ điển, điển hình là Frederic Chopin (1810-1849) hay Maurice Ravel (1875-1937), cho dù các tác phẩm của họ dù mang tên là ‘’bolero’’ nhưng cũng chẳng ăn nhập gì với điệu nhạc bolero mà ta thường nghe thời nay.


2. Dòng nhạc bolero ở Cuba
Nhạc Bolero sản sinh tại Cuba chính là những điệu nhạc mà ta thường nghe thấy hiện nay. Nếu xét đơn thuần về thể loại âm nhạc, thì trường phái bolero nẩy sinh từ Cuba vào cuối thế kỷ 19 và hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng nó có cùng một cội nguồn với điệu nhạc trova, một thể loại ‘‘du ca’’ của Tây Ban Nha. Cha đẻ của dòng nhạc bolero Cubano là nhạc sĩ đàn guitar José Sánchez (1856 – 1918), mà nhiều người gọi một cách thân mật là Pepe Sánchez.

Sinh trưởng tại Santiago de Cuba, José Pepe Sánchez xuất thân từ một gia đình nghèo, không được cho ăn học tới nơi tới chốn, cho nên ông chọn học nghề thợ may. Nhờ có năng khiếu âm nhạc và lỗ tai rất thính, ông tự học nhạc bằng cách mò mẫm chơi đàn, ông sáng tác rất nhiều ca khúc nhưng tất cả đều là chơi thuộc lòng, chứ không có bài nào được ghi chép một cách bài bản. Chính cũng vì vậy mà sau ngày ông qua đời, có rất nhiều bài hát bị lãng quên, do không được lưu trữ qua văn bản.


Theo nhà nghiên cứu Luis Antonio trong quyển sách nói về lịch sử của dòng nhạc bolero tại Cuba (Historia del bolero cubano), bản nhạc bolero đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1883 do chính José Pepe Sánchez sáng tác mang tựa đề ‘’Me Entristeces, Mujer’’ mà sau này người ta thường hay gọi một cách ngắn gọn là ‘’Tristezas’’ (Những nỗi buồn).


Khai sinh từ Cuba, dòng nhạc bolero sau đó đã nhanh chóng lan tỏa ra nước ngoài và bén rễ tại các quốc gia Nam Mỹ và ở vùng biển Caribean, tiêu biểu nhất là Puerto Rico. Riêng tại Mexico, dòng nhạc bolero chính thức ra đời vào đầu những năm 1920, thời mà các tác giả Trung Mỹ lao vào phong trào sáng tác theo thể điệu này. Bản nhạc bolero đầu tiên nổi tiếng trên khắp Nam Mỹ là bài “Lágrimas Negras” do nhạc sĩ Miguel Matamoros sáng tác vào năm 1929. Bản thứ nhì là bài “El Manisero”, ghi âm vào năm 1930, cả hai bài này phá kỷ lục số bán với hơn một triệu bản.

3. Dòng nhạc bolero Việt Nam
Tại Việt Nam, dòng nhạc boléro du nhập vào miền Nam Việt Nam vào khoảng thập niên 1950, lúc phong trào tân nhạc Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ; nhiều nhạc sĩ bắt đầu sử dụng nhạc điệu phương Tây thay cho nhạc điệu phương Đông truyền thống. Bolero bao gồm nhiều giai điệu như: Rumba, Chachacha, Valsedanza, habanera, trova, son…Một vài đặc điểm của nhạc bolero ở Việt Nam:
-Những giai điệu bolero Việt Nam pha lẫn chất ngũ cung và cả dân ca của vùng sông nước Nam Bộ. Nhưng đồng thời, nhạc Bolero vẫn giữ nguyên sự nhẹ nhàng, lắng đọng trong ca từ.
-Vì giai điệu nhẹ nhàng, ca từ bình dị, nội dung dễ hiểu nên nhạc bolero dễ dàng tiến nhập trái tim của con người, đáp ứng nhu cầu tinh thần của đông đảo quần chúng lao động. Nhạc bolero không hề mang tính trừu tượng và cần có kiến thức về âm nhạc sâu rộng mới có thể hiểu được như một số thể loại nhạc bác học khác.
-Một đặc điểm quan trọng và không thể thiếu ở bolero chính là tính buồn đặc trưng trong bài hát. Những ca khúc bolero dù hát về chủ đề nào cũng mang đến cho người nghe một chút buồn. Một chút tiếc thương, một chút đồng cảm cho những câu chuyện đời, chuyện người trong bài hát.


Không có tài liệu nào cho biết chính xác bài đầu tiên dòng nhạc bolero là bài nào. Tuy nhiên, theo nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển cho rằng bài hát Duyên quê (Chachacha) của Hoàng Thi Thơ có thể là bài đầu tiên. Trong khi đó, nhà nghiên cứu Trần Thị Vĩnh Tường lại cho rằng bài bolero đầu tiên ở Việt Nam là bài Xóm đêm (Rhumba) của Phạm Đình Chương. Nhưng theo nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 : "Người đầu tiên viết ra bolero là Lam Phương với Kiếp Nghèo (Tango) và Chuyến Đò Vĩ Tuyến (Rhumba) rồi đến các bài hát của nhạc sĩ Trúc Phương”.
Từ thập niên 1960 đến thập niên 1970 là những năm đỉnh cao của giai điệu này. Lúc đó rộ lên phong trào "Thời trang nhạc tuyển" mà những bài nhạc boléro được được thâu vào băng cassette hoặc đĩa nhựa phát hành rộng rãi. Một số ca khúc tiêu biểu là Những đồi hoa sim (Dzũng Chinh phổ thơ Hữu Loan), Tàu đêm năm cũ, Nửa đêm ngoài phố (Trúc Phương), Thành phố sau lưng (Hàn Châu), Về đâu mái tóc người thương (Hoài Linh), Xuân này con không về (Trịnh Lâm Ngân), Đêm buồn tỉnh lẻ (Bằng Giang - Tú Nhi), Vòng nhẫn cưới, Đêm lang thang, Không giờ rồi (Vinh Sử), Hoa sứ nhà nàng của Hoàng Phương...


Như chúng ta đã biết, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, toàn bộ nền văn hóa nghệ thuật miền Nam bị lên án là “độc hại” và “cần xóa bỏ” bởi đảng cầm quyền cộng sản VN:

nhạc bolero 2

Trong “toàn bộ nền văn hóa nghệ thuật” đó, âm nhạc miền Nam trước 1975 được cán bộ văn hóa cộng sản gọi là “nhạc vàng”. Hai chữ “nhạc vàng” phát xuất từ đâu? Và được nhà cầm quyền CSVN dùng để bức tử nền âm nhạc trữ tình, nhân bản của miền Nam VNCH như thế nào? Người đề xuất từ ngữ và sự phân loại “nhạc vàng” này là nhạc sĩ Phạm Tuyên (PT), từng là chủ tịch hội âm nhạc Hà Nội, ban chấp hành hội nhạc sĩ VN của chính quyền CSVN. Đề xuất của PTđã được chính thức sử dụng theo chỉ thị của nhạc sĩ Trần Hoàn, bộ trưởng thông tin văn hóa nước CHXHCNVN. Theo đó, âm nhạc miền Nam Việt Nam (VNCH) trước 1975 được gọi là "nhạc vàng" (bao gồm cả bolero) tượng trưng cho sự“vàng úa”,“ru ngủ”, "đồi truỵ", "ủy mỵ" và "phản động”... Chắc chúng ta không quên, ngay sau ngày 30 tháng 4, 1975 chính quyền CSVN đã áp dụng chính sách “cách mạng văn hóa” rập khuôn của Trung Cộng (Mao Trạch Đông) nhằm tiêu hủy toàn bộ nền văn hóa (bao gồm âm nhạc) của miền Nam VNCH. Hàng trăm văn nghệ sĩ bị học tập cải tạo, vào tù… vì là tác giả của những tác phẩm văn học nghệ thuật trữ tình và nhân bản này.

Tại sao nền“nhạc vàng” một thời “ủy mị”, “đồi trụy”, “phản động”... nói trên sống lại mạnh mẽ, rầm rộ từ Bắc chí Nam trong những năm gần đây? Từ “phản động” trở thành “trữ tình”? Từ “đồi trụy” trở thành “nhân bản” bất ngờ? Nếu không có sự đồng ý của đảng và nhà nước CSVN, thì liệu dòng “nhạc vàng” có tự nhiên phục hồi do nhu cầu âm nhạc của quần chúng? Chắc chắn là không! Phải chăng sau 50 năm, nhà nước CSVN mới nhận ra cái “nghèo nàn”, “cứng ngắt”, “vô hồn” của văn học nghệ thuật, nhất là lãnh vực âm nhạc? Hay đảng lãnh đạo CSVN đã nhìn thấy giá trị và muốn bảo tồn và phát huy dòng “nhạc vàng” một thời bị lên án đó? Chắc chắn là không!

Văn học nghệ thuật bao gồm cả âm nhạc là nền tảng văn hóa của một dân tộc. Giá trị văn học nghệ thuật của một dân tộc được đánh giá, bảo tồn bởi chính nhân dân và lịch sử của đất nước, không phải của đảng cầm quyền. Những ồn ào, xu hướng và thổi phồng một trào lưu văn nghệ chỉ mang tính “thời sự”, nhất thời và sẽ bị đào thải trong tương lai. Những ca khúc “nhạc vàng bolero" trữ tình, nhân bản được người Việt trong và ngoài nước, chuyên nghiệp hay yêu ca hát; trên sân khấu lộng lẫy và ngoài đường phố bụi bay; ở bất cứ lứa tuổi nào, bất cứ hoàn cảnh nào đang góp phần cất cao tiếng hát hôm nay, ngày mai và mãi những mai này. Họ hát cho những người biết trân trọng, yêu quý nền âm nhạc trữ tình, đầy tính nhân bản vốn có của dân tộc chúng ta. Với nền khoa học công nghệ thông tin hiện đại, thế hệ trẻ Việt Nam không còn bị bưng bít bởi nhà cầm quyền CSVN như trước nữa. Họ sẽ dễ dàng tìm hiểu những bài hát mang giá trị nghệ thuật đó phát xuất từ đâu, do ai sáng tác và trong giai đoạn lịch sử nào của đất nước. 

Cám ơn các bạn đã cùng tôi “lang thang” với bolero, tản mạn với “nhạc vàng” hôm nay. Tôi xin mượn câu nói của nhà soạn nhạc lừng danh người Ý, Gioachino Rossini nói về ngôn ngữ âm nhạc để khép lại bài viết: “Ngôn ngữ của âm nhạc là ngôn ngữ chung của tất cả mọi thế hệ và mọi dân tộc; ai cũng hiểu được nó, bởi nó được hiểu bằng trái tim”.


Niệm Từ

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Được sự cho phép của nghệ sĩ Lê Uyên, chúng tôi rất tiếc phải thông báo đến quý khán/thính giả và quý bằng hữu về việc Lê Uyên vừa trải qua tai nạn xe do một người tài xế say rượu gây ra vào khoảng 9 giờ 45 phút tối thứ Ba, ngày 17 tháng 6 năm 2025 tại Quận Cam, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Hiện tại, Lê Uyên đang được điều trị tại bệnh viện và không ở trong tình trạng nguy kịch
CÓ NHAU TRONG ĐỜI: 7 GIỜ TỐI CHỦ NHẬT 29 THÁNG 6 NĂM 2025 tại Coffee Factory: 15582 Brookhurst St., Westminster, CA 92683. Vé bảo trợ $150 - Vé VIP $100 - Vé đồng hạng $80. Để đặt vé và bảo trợ cho chương trình, vui lòng nhắn tin ban tổ chức 714-725-5445 hoặc 714-592-8941. Ban tổ chức chân thành cảm ơn Coffee Factory hỗ trợ Lê Uyên thực hiện chương trình tưởng niệm này.
Mỗi năm cứ đến cuối tháng Tư, mặc dầu đang là mùa Xuân thanh bình trên quê hương thứ hai, những kỷ niệm đau đớn xưa vẫn tìm đường trở về trong tâm tưởng. Năm nay đánh dấu 50 năm, một nửa thế kỷ nên càng thêm đậm nét. Bản thân tôi thuộc lớp người di cư vào Nam sau hiệp định Geneve ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954, lại có thêm những hoài niệm khắc khoải hơn. Trong hiệp định có khoảng 300 ngày để di cư, sau này vì số người di cư từ Bắc vào Nam quá đông nên được gia hạn thêm vài tuần. Đối với cá nhân tôi, rời bỏ miền Bắc tháng 4 năm 1955 nên là đánh dấu 70 năm di cư và 50 năm di tản. Những người hai lần di cư, nhất là các phụ nữ Việt thật nhẫn nại, kiên cường chịu đựng từ 70 năm qua, định cư tại miền Nam mới được 20 năm thì lại phải di tản. Nếu năm 1955, chỉ xuống miền Nam thì năm 1975 phải đến một nơi xa lạ cách cả một đại dương.
Vũ Xuân Thông sinh ngày 9 tháng 12 năm 1939 tại Hà Nội. Là gia đình có đạo dòng, Thông theo học trường Puginier, là một ngôi trường cổ xưa được xây cất từ năm 1897 tại Hà Nội. Năm 1954, khi gia đình di cư vào Nam, ở tuổi 15 Thông là con trai cả trong một gia đình lúc đó có 4 anh em: Vũ Xuân Thông, Vũ Văn Thanh, Vũ Văn Phượng, Vũ Thị Bích, sau này trên vùng đất mới, gia đình Thông có thêm 2 người em nữa là Vũ Hồng Vân, Vũ Văn Dũng.
Chưa có bao giờ vào những ngày đầu năm mà tôi phải nằm nhà suốt như năm nay. Năm 2025, năm của con rắn, năm Ất Tỵ. Ở tuổi già bước vào tuổi tám bó, cực chẳng đã bị cái bệnh khiến mệt rề rề mới nằm nhà, nếu khỏe ra cà phê tán gẫu. Chuyện tầm phào từ thuở xa xưa, thời khai thiên lập địa, có một phái đoàn có cả con người và muôn loài động vật, chuyện không nhắc đến dùng phương tiện gì, mà tất cả đã mò lên trình diện được cùng Thượng Đế. Việc trước tiên là… vấn an Ngài, thứ đến là xin Ngài ban phước lành cho trần thế. Không hiểu từ một sự sắp xếp theo một tuần tự ngẫu nhiên nào mà cặp đôi trùng phùng đến quì trước mặt Thượng Đế là một lão già lẩm cẩm, chừng đâu đó tuổi bằng tuổi tôi hiện giờ (83) và một con rắn lượn mình hớn hở.
Hà Nội của một thời “36 phố phường” cũng không hiểu vì sao, thời còn đi học nơi phố cổ Hội An, ngoài thơ, văn… vài ca khúc từ thời tiền chiến đã chiếm trong tâm hồn tôi. Nơi chốn đó khi xa cách với nỗi buồn, tiếc như như ca khúc Hướng Về Hà Nọi của nhạc sĩ Hoàng Dương
“Để có thể nối kết đồng cảm ý nghĩa và tình tự của một ca khúc với người nghe, người hát cần hiểu ca từ sâu sắc và rung động với tâm tình trong lời và nhạc.”
Và đêm qua, chân dung ấy đã mang bao tâm hồn, bao thế hệ cùng trở lại bên nhau. Anh biết không, trong khuôn viên rộng lớn của Bowers Museum, em đã nhận ra, và tìm về với bao nhiêu gương mặt thân quen mà đã từ lâu em không gặp. Họ là những tên tuổi lớn của mọi lĩnh vực từ văn chương, âm nhạc cho đến điện ảnh... Họ là những vị đã bước qua tuổi tám mươi, đến những em nhỏ chưa tròn đôi mươi. Họ là những nhân chứng của cuộc chiến tranh. Như một định mệnh, những tâm hồn ấy lại ngồi bên nhau để cùng nghe tiếng hát vang lên: “Tình ngỡ chết trong nhau, nhưng tình vẫn rộn ràng, Người ngỡ đã quên lâu, nhưng người vẫn bâng khuâng” (Trịnh Công Sơn)
“Nếu không có tiếng hát Khánh Ly thì chúng ta có những gì, còn gì?” Nếu chỉ được chọn một câu để nói về người ca sĩ đã cống hiến gần cả cuộc đời cho âm nhạc, thì tôi xin chọn câu nói trên của MC Lê Đình Ysa trong “Đêm mừng Khánh Ly 80 tuổi” được nhóm bạn trẻ Nina Hòa Bình Lê, Ann Phong, Lê Đình Ysa, Nguyễn Lập Hậu & Jimmy Nhựt Hà... tổ chức vào tối thứ Sáu 7/3/2025 tại quận Cam, Nam California.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.