Hôm nay,  

Giải Nobel Văn Chương 2025: Tia Sáng Giữa Thời Mạt Thế

09/10/202513:21:00(Xem: 1696)
12
Ảnh: László Krasznahorkai, nhà văn Hungary; tòa nhà Börshuset nơi công bố giải văn chương Nobel.


Có mặt ở Thụy Điển mùa thu 2025 khi giải Nobel Văn Chương được công bố là một cảm giác lạ kỳ khó tả. Ánh nắng tràn ngập khắp Stockholm, đến nỗi tòa nhà Börshuset cổ kính – nơi Viện Hàn Lâm Thụy Điển đọc tên người đoạt giải Nobel Văn Chương – cũng sáng rực như một thánh đường vừa được mở cửa sau cơn đại dịch tinh thần. Dù rèm nhung đã khép, ánh sáng đầu thu vẫn len qua từng khe cửa, soi lên những đường mạ vàng lấp lánh trên trần, trên tường, như thể lịch sử đang tự soi lại mình. Thứ ánh sáng ấy – lẻ loi, mỏi mệt, nhưng kiên định – vẫn sáng, bất chấp mọi bão tố quyền lực đã từng thổi qua bao thế kỷ.

Khoảng hai giờ trước khi Mats Malm, vị thư ký trầm tĩnh của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bước ra, thế giới vừa nghe tin: Israel và Hamas ký hiệp định hòa bình. Một mẩu tin nhỏ, nhưng làm cả hành tinh thở phào. Có lẽ, nếu tinh ý, người ta đã thấy khóe miệng vị sứ giả nhích lên một nụ cười như thể dành riêng cho nhân loại sau khi đã hứng chịu quá nhiều tuyệt vọng. Và rồi, cái tên được xướng lên: László Krasznahorkai, nhà văn Hungary – kẻ viết những câu văn dài như cơn hấp hối, nhưng mỗi chữ lại sáng rực như ngọn đèn dầu giữa đêm mất điện.

Một bất ngờ… mà thật ra chẳng mấy ai bất ngờ. Viện Hàn lâm Thụy Điển, như thường lệ, lại khiến người ta ngạc nhiên bằng cách không hề ngạc nhiên. Từ Kertész đến Müller, từ Aleksijevitj đến Fosse – những cái tên của hai thập niên qua đều là những kẻ đi ngược gió. Họ không tô son cho nhân loại, chỉ soi gương cho nó. Và hôm nay, Krasznahorkai nối tiếp truyền thống ấy: một người viết không để an ủi ai, mà để bóc trần thế giới trong lúc nó đang rệu rã.

Ông là nhà văn của thời đại này – một thế giới đang run rẩy bên bờ tận diệt. Hiện diện ở đó, văn chương Ông không để ca tụng mà để chứng giám. Mỗi chữ của ông như một hạt tro còn vương hơi ấm, còn thực tại quanh ta – những đám tro tàn nhưng vẫn âm ỉ chưa nguội. Với Krasznahorkai, tận thế không phải là ngày mai; nó đã bắt đầu từ lâu, chỉ là ta chưa nhận ra.

Sau một năm dạo bước tận Hàn Quốc, Viện Hàn lâm trở lại Trung Âu – nơi mỗi nhà văn viết như đang đi qua đổ nát của nền văn minh. Trong tác phẩm mới nhất Herscht 07769, ông dẫn người đọc qua một thành phố Đức nơi tượng Bach bị đập nát, và tư tưởng cực hữu mọc lên như cỏ dại giữa đống đổ nát của niềm tin. Cuốn sách dài 375 trang, chỉ có một câu duy nhất – một hơi thở kéo dài, một cơn mê sảng không hồi kết.

Dịch giả Daniel Gustafsson từng bảo: “Dịch văn của ông như trượt ván nước – lỡ chân là bị chữ cuốn đi mất.” Và đúng thế, Krasznahorkai không viết để người đọc hiểu, mà để họ bị nuốt chửng. Trong dòng chữ bất tận của ông, thời gian tự co cụm lại, còn thực tại thì trôi đi như mảnh vỡ bị hút vào lốc xoáy.

Văn chương của ông, như chính thời đại này, vừa khốc liệt vừa buồn cười. Mỗi câu chữ là tiếng vọng từ vực thẳm, nhưng lại thấp thoáng một nụ cười mệt mỏi – thứ hài hước chỉ dành cho những ai đã tuyệt vọng đủ lâu để biết rằng cười là cách duy nhất còn sót lại để sống.

Giải thưởng năm nay, nói cho đúng, không chỉ tôn vinh văn chương mà còn tôn vinh sự can đảm. Bởi quê hương ông – Hungary – đã trở thành biểu tượng của thứ độc tài khoác áo dân tộc. Krasznahorkai, bằng văn phong chậm rãi và cay nghiệt, đã nhiều lần vạch trần cái “giấc mơ hồi sinh huy hoàng” ấy. Ông nhắc ta nhớ rằng không có quá khứ vàng son nào để quay về – chỉ có những kẻ thua cuộc cố tô màu cho thất bại của mình. Một nửa nước Mỹ chắc không xa lạ gì với điều đó: chẳng có “vĩ đại” nào chờ ta ở cuối con đường, ngoài vực sâu của chính ảo tưởng.

Krasznahorkai không làm chính trị, nhưng văn của ông là một bản cáo trạng dành cho mọi chế độ tôn thờ sức mạnh và sợ hãi. Ông viết về cái giả trá của “dân tộc vĩ đại”, về con người bị nghiền nát trong cỗ máy lịch sử, về những kẻ đi tìm “vẻ đẹp thiêng liêng” giữa một thế giới đầy rác tinh thần. Ông từng nói: “Ở Hungary hôm nay, không còn hy vọng nào nữa. Nhưng tôi vẫn muốn viết để cho người tuyệt vọng còn một lý do để sống.”


Câu nói ấy nghe bi quan, nhưng thật ra lại đầy nhân bản. Vì chỉ ai tuyệt vọng mà vẫn còn yêu cuộc đời, mới hiểu thế nào là sự sống. Trong cùng ngày thế giới nghe tên Krasznahorkai, người ta cũng nghe tin Trung Đông có hòa bình, giải Nobel Hóa học được trao cho công trình biến khí độc CO₂ thành nước, và vài kẻ độc tài khác vẫn bắn hỏa tiễn ăn mừng. Một ngày vừa sáng vừa tối, vừa như phép lạ vừa như trò hề – y như một chương tiểu thuyết của chính ông.

Thật ra, trong truyện của Krasznahorkai, mọi chuyện đều như thế: phi lý nhưng có lý, tuyệt vọng nhưng vẫn đầy sinh khí. Một tiểu thuyết gia nhìn tận thế mà vẫn bật cười – có lẽ vì ông biết rằng tiếng cười là hình thức cuối cùng của trí tuệ.

Nếu ngày mai Donald Trump được trao Nobel Hòa bình, chắc hẳn Krasznahorkai sẽ mỉm cười – nụ cười vừa giễu, vừa hiền – bởi Ông biết rõ trò đùa của tạo hóa không bao giờ kết thúc.

Vì thế, giải Nobel năm nay, hơn mọi năm, là lời nhắc rằng giữa thời buổi mọi giá trị nhân thế đều có thể bị đo bằng quyền lực và mua bán bằng tiền, vẫn còn có những câu chữ biết soi sáng linh hồn.

Krasznahorkai từng viết: “Trong những ngày tăm tối nhất, ta vẫn có thể bật cười – vì chẳng còn gì khác để làm.” Một câu nghe ra như tuyệt vọng, mà lại là định nghĩa trọn vẹn của hy vọng.

Và có lẽ, trong ánh sáng chiều nay, khi Mats Malm đọc tên ông, người ta đã thấy điều ấy – thứ ánh sáng nhỏ bé, ngoan cường, vẫn len qua khe cửa nhân loại, để nhắc ta rằng văn chương, dù run rẩy, vẫn không tắt. Như thành phố Stockholm buổi chiều, vẫn nắng vàng chan hòa – bình thản dù thế giới xung quanh đang chênh vênh bên bờ tận diệt.

Bởi như Václav Havel từng nói: “Hy vọng không phải là tin rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn, mà là biết rằng, dù kết cục ra sao, vẫn còn điều gì đó đáng để tin." Có lẽ chính điều ấy, hơn cả giải thưởng hay vinh quang, là lý do để con người tiếp tục viết – và tiếp tục tin rằng, giữa những vết nứt của thế giới này, ánh sáng vẫn còn chỗ để lọt vào.

 

Nina HB Lê & Sớm Mai Lê biên tập

Thụy Điển, mùa thu 2025


 

*Đọc truyện ngắn của László Krasznahorkai, “Một Thiên Thần Lướt Trên Chúng Ta”, Ngu Yên dịch theo link dưới đây:
https://vietbaoonline.com/a323513/mot-thien-than-luot-tren-chung-ta

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)
Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.” Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ? Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”
Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi. Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025
László Krasznahorkai – nhà văn Hungary vừa được trao giải Nobel văn chương – nổi tiếng với những câu văn dài như một hơi thở kìm nén, nơi ý tưởng đi qua địa ngục mà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh của thiên thần. Một thiên thần lướt trên chúng ta là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy: giữa bùn lầy chiến hào và tiếng pháo rít xé trên đầu, một người lính cụt chân, mắt mờ, lại giảng về văn minh số, về văn hóa như bản năng sinh tồn của loài người. Chiến tranh vẫn gầm thét, nhưng lời anh vẫn tuôn, dài, sáng, và lạ thay – đầy hy vọng. Bản Việt ngữ của Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của John Batki, giữ nguyên nhịp câu, những đoạn văn dài như dòng suy tưởng không dứt.
Phân lý chữ nghĩa Bùi Giáng là việc làm nghiêm túc một cách khôi hài. Phê bình thơ Bùi Giáng là khôi hài một cách nghiêm túc. Tôi chú ý đến hai đối cực hài hòa này vì càng suy nghĩ, càng lý luận, thì càng cảm nhận chất khôi hài trong thơ Bùi Giáng là một đặc sản. Thưởng thức thơ Bùi Giáng, trước hết là thú vị với cách thế đùa nghịch chữ nghĩa và tứ thơ của ông, tiếp theo là những ngạc nhiên về chất lượng ngộ nghĩnh và biến hóa trong ý nghĩ, tư tưởng của Bùi Giáng một cách sâu sắc và sự sâu sắc này mang đến lòng ngưỡng mộ, vì sự sâu sắc này mà chúng ta cần phải nghiêm túc.Trước Bùi Giáng có rất nhiều nhà thơ làm thơ hài hước nổi danh như Tú Xương, và các ông tú sau này. Hầu hết các nhà thơ thành danh đều có thơ hài hước, như Nguyễn Khuyến, Tản Đà, vân vân. Tuy nhiên, gần như những hài hước đó luôn kèm theo sự mỉa mai, nụ cười xách mé, mỉm cười khinh bỉ, nín cười che miệng, cười lớn chế nhạo. Trong khi chất khôi hài của Bùi Giáng qua thơ chỉ tạo ra nụ cười hoặc tức cười.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.