Hôm nay,  

Viết Một Câu Duy Nhất – Khi Ngôn Ngữ Biến Thành Hơi Thở

19/10/202510:54:00(Xem: 1519)

uan

 
                                                                                                   (Một suy ngẫm về văn phong của
László Krasznahorkai,
Nobel Văn chương 2025)  

Có những nhà văn không viết bằng câu chữ, mà viết bằng nhịp thở. Họ kéo dài một câu đến tận giới hạn cuối cùng của hơi thở con người – nơi ngữ pháp tan ra thành nhịp tim, và mỗi dấu phẩy là một nhịp đập. Kiểu viết ấy, với nhiều người, là cực hình; với những người khác, lại là một cuộc giải phóng.

Năm 2025, Giải Nobel Văn chương trao cho László Krasznahorkai, nhà văn Hungary được mệnh danh là “bậc thầy của sự tận cùng” (the master of apocalypse). Cùng lúc ấy, nhiều người viết – trong đó có chúng tôi – lại tự hỏi: vì sao văn chương có thể chỉ gồm một câu, và vì sao một câu duy nhất vẫn có thể chứa cả thế giới ? (*)

1. Từ Joyce đến Bernhard và Saramago – những thử nghiệm giới hạn của câu chữ
Trước Krasznahorkai, văn học thế giới từng có những người đã làm cho câu văn vượt khỏi vai trò kể chuyện. James Joyce, trong chương “Penelope” của Ulysses, để Molly Bloom độc thoại suốt hàng nghìn từ không dấu chấm. Câu văn ấy như một tâm trí đang tự nghĩ, không dừng nghỉ, không sắp xếp – nó đưa ý thức vào hình thức.

Thomas Bernhard, nhà văn Áo, thì lại biến câu văn thành cơn ám ảnh triền miên. Trong The Loser hay Correction, ông lặp đi lặp lại, phủ định, rồi lại tự phủ định – như thể trí tuệ đang bị chính mình giam giữ. Đọc Bernhard là nghe một người đang tự độc thoại cho đến khi kiệt sức.

José Saramago, trái lại, viết dài mà dịu dàng. Câu văn của ông, dù hiếm có dấu chấm và bỏ ngoặc kép, vẫn ấm áp như một hơi kể liên tục. Trong Blindness (Mù lòa), cả thế giới lạc lối trong bóng tối, nhưng ngôn ngữ của ông vẫn như một bàn tay dắt người đọc đi qua.

Nhìn từ ba văn hào trên , ta có thể thấy: một câu duy nhất không còn là kỹ thuật, mà là một cách sống của ngôn ngữ – Joyce viết để mô phỏng tư duy, Bernhard viết để trút cơn điên của lý trí, Saramago viết để nối con người với nhau bằng nhịp kể nhân hậu.
 
2. Krasznahorkai – tiếng thở dài của thế giới

Nhưng chỉ đến László Krasznahorkai, hình thức ấy mới đạt đến mức tận cùng của nội lực và tuyệt vọng. Trong The Last Wolf và Herman, ông viết toàn bộ truyện chỉ bằng một câu duy nhất – kéo dài như một cơn mê, trôi đi như lời kể của một kẻ đã mất phương hướng giữa đời.

The Last Wolf mở ra trong quán rượu Berlin, nơi một nhà văn hầu như đã bị lãng quên được gọi sang Tây Ban Nha để viết về con sói cuối cùng – một công việc anh ta không hiểu vì sao lại rơi vào tay mình.Anh ta kể lại chuyến đi vô nghĩa, trong khi người nghe – một anh bồi bàn – hoàn toàn thờ ơ. Câu chuyện ấy, diễn ra trong một câu duy nhất, như một tiếng thở dài của nhân loại trước sự tuyệt chủng – không chỉ của loài sói, mà của mọi niềm tin về ý nghĩa.

Truyện ngắn “Herman” (**) kể về một thợ săn được giao nhiệm vụ tiêu diệt thú dữ, nhưng dần dần anh ta biến thành chính con thú mà mình săn đuổi. Truyện cũng chỉ có một câu duy nhất, nhưng đó là một câu của chuyển hóa của bản thể, nơi ngôn ngữ đi từ lý trí đến bản năng, từ con người đến thú vật.
Nhà phê bình James Wood (The New Yorker) gọi văn chương của Krasznahorkai là “sự kết hợp giữa cơn mê tận thế và độ chính xác của thần chú”. Còn Susan Sontag, khi giới thiệu Satantango, nói rằng ông “viết như thể thế giới sắp sụp đổ, và chữ là cách duy nhất để giữ nó lại”.

Đọc Krasznahorkai, ta có cảm giác ngôn ngữ không còn là công cụ, mà là một chất lỏng đang chảy loang ra. Mỗi dấu phẩy là một nhịp thở gấp, mỗi mệnh đề như một đợt sóng. Khi đọc hết câu, ta như vừa đi qua một cơn mưa dài, ướt đẫm, kiệt sức – nhưng cũng thanh sạch hơn.

Krasznahorkai không viết để kể chuyện. Ông viết để truyền tải năng lượng của sự tồn tại, thứ năng lượng vừa mệt mỏi vừa thiêng liêng. Như W. G. Sebald từng nói về ông: “Không ai còn viết câu dài như thế, trừ khi họ nghe thấy tiếng vang của sự tận diệt trong đầu.”

3. Khi câu văn trở thành thời gian

Điều đặc biệt ở Krasznahorkai là: câu văn không còn diễn tả thời gian – nó chính là thời gian. Khi đọc, ta không còn cảm giác về một nhịp kể, mà như đang chìm đắm trong dòng chảy của đời sống – nơi mọi chuyển động lặp lại và tan rã, như một cơn thở dài không dứt của thế giới. Câu văn dài đến mức người đọc không thể “ngưng nghỉ” mà phải cùng nó cố thở theo nhịp điệu . Chính lúc đó, tất cả hòa vào nhau: người viết, người đọc và ngôn ngữ cùng tồn tại trong một dòng chảy. Ở điểm này, Krasznahorkai gần gũi với âm nhạc và hội họa hơn là văn xuôi. Trong phim Werckmeister Harmonies (dựa trên tiểu thuyết của ông), cảnh quay dài bất tận cũng mang tinh thần ấy – như thể mọi thứ chỉ là một chuyển động duy nhất, không thể ngắt.

Câu chuyện “một câu duy nhất” vì thế không còn là thí nghiệm ngữ pháp, mà là một cảm thức hiện sinh: thế giới không hề bị chia nhỏ như những đoạn văn, mà trôi liền một mạch, không ai thoát ra được, cho đến khi cùng kiệt.

4. Tiếng Việt và khả năng “một câu duy nhất”

Là người viết, chúng tôi luôn thấy tiếng Việt vẫn có nhịp riêng – mềm mại, uốn lượn, có khả năng chuyển giọng trong cùng một hơi dài. Điều ấy khiến tôi tin rằng, nếu có ai muốn thử viết “một câu duy nhất” trong tiếng Việt, ngôn ngữ này hoàn toàn đủ sức chứa đựng.

Tiếng Việt có nhịp chảy tự nhiên của dấu phẩy, của hư từ, của biến giọng. Một câu có thể kéo dài, trôi đi, không mệt mỏi , nếu người viết biết “nghe” nó. Có thể, điều quan trọng không phải là độ dài, mà là dòng năng lượng của ý nghĩ – nơi ta không thể ngắt, vì ngắt là mất nhịp.

Krasznahorkai khiến ta nhận ra: viết không phải là sắp chữ, mà là giữ hơi. Một hơi chữ dài đến đâu là một hơi của đời sống dài đến đó. Cái “một câu duy nhất ” ấy không nằm ở số lượng dấu chấm, mà ở tinh thần viết không dừng lại – không dừng vì sợ, không dừng vì đã hiểu, không dừng vì hết tin.

5. Một câu duy nhất  là một đời người

Những nhà phê bình có thể gọi đó là “văn bản hậu hiện đại”, “tự sự của dòng ý thức”, hay “mô hình chống-cấu trúc”. Nhưng với người viết, nó chỉ là đời sống trôi trong chữ nghĩa.

Krasznahorkai, trong các tiểu thuyết như Melancholy of Resistance hay Baron Wenckheim’s Homecoming, viết như người vừa chứng kiến ngày tận thế và vẫn phải tiếp tục kể, dù biết không còn có người nghe. Văn chương ấy, như James Wood nói, “vừa tuyệt vọng vừa kiêu hãnh, như một bản cầu siêu cho nhân loại.”

Và có lẽ, điều khiến Krasznahorkai được Nobel 2025 không chỉ là sự tinh vi của kỹ thuật, mà là tấm lòng của người còn tin vào sức mạnh của ngôn ngữ, ngay cả khi ngôn ngữ ấy đang sụp đổ cùng thế giới.
 
6. Kết

Khi nghĩ đến Krasznahorkai, ta không nghĩ đến câu chuyện, mà nghĩ đến một hơi thở. Hơi thở ấy kéo dài suốt trang sách, len vào từng con chữ, như dòng sông không muốn chảy ra biển.

Joyce đã mở đường cho dòng ý thức, Bernhard và Saramago đã biến nó thành nhịp của ám ảnh và lòng nhân. Nhưng Krasznahorkai là người dẫn hơi ấy đến tận bờ tuyệt vọng, và từ đó, ông chứng minh rằng chỉ có ngôn ngữ – chậm, dài, kiên nhẫn – mới có thể chạm tới cốt lõi của sự sống.

Viết “một câu duy nhất” không phải là chiêu trò kỹ thuật, mà là hành động giữ lấy thế giới, bằng ngôn ngữ , bằng hơi thở, bằng niềm tin rằng chừng nào câu văn còn chưa kết thúc, thì nhân loại vẫn còn thở.

(Các nhận định trong bài có tham chiếu các bài phê bình và phỏng 
vấn của Susan Sontag, James Wood, cùng thông cáo của Viện Hàn lâm Thụy Điển – Nobel 2025.)

Chú thích:

(*) Các tác giả nổi tiếng từng viết một truyện, hoặc một đoạn dài tương đương một truyện, chỉ trong một câu duy nhất, mỗi người theo cách rất riêng, có thể kể ra :  James Joyce ; William Faulkner với Absalom, Absalom! (1936, trong chương 6, Faulkner viết một câu dài hơn 1.200 từ, được xem là “một trong những câu dài nhất trong văn học Anh ngữ”) ; José Saramago với Blindness (Mù lòa, 1995); Thomas Bernhard với Correction (1975), Yes, Old Masters ;Mathias Énard với Zone (2008, tiểu thuyết Zone - nguyên bản tiếng Pháp - gồm 517 trang, viết bằng đúng một câu duy nhất); Lucy Ellmann với Ducks (Newburyport 2019, hơn 1,000 trang, gần như toàn bộ viết trong một câu duy nhất với độc thoại nội tâm của một bà nội trợ Mỹ, xen lẫn các suy nghĩ vặt vãnh, lo âu và triết lý sống.)

Với Krasznahorkai,“một câu duy nhất” không phải để khoe kỹ thuật, mà để mô phỏng chính bản chất của suy tư triền miên và tuyệt vọng. Câu văn không chỉ là cú pháp — mà là hình thức triết học của sự tồn tại.“Câu văn không dừng lại, vì thế giới cũng không bao giờ dừng lại, dù ta đã kiệt sức.” như lời László Krasznahorkai.
 
(**) Truyện chỉ “ một câu duy nhất” “HERMAN”, toàn văn:
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)
Nhã Ca sáng tác bài “Một Đoạn Nhã Ca” vào năm 1972. Trước biến cố lịch sử 1975, bà là một trong vài nhà thơ nữ hàng đầu ở Miền Nam Việt Nam, với dòng thơ mang những tứ thơ sâu sắc, ngôn ngữ thơ lãng mạn, ý niệm thể hiện và bênh vực giá trị của người nữ. Thơ Nhã Ca có thể gom vào hai chữ “dám nói.” Bài “Một Đoạn Nhã Ca” mở đầu bằng 9 câu, kết bằng 3 câu, và 111 câu thân, tổng thể là 123 câu, chia ra 15 đoạn. Nhìn một cách tâm lý, phải chăng 15 đoạn thơ này đại biểu một số điều cho một đoạn tiểu sử ngầm của Nhã Ca? Nói một cách văn vẻ, phải chăng có 15 cửa sổ để mở nhìn vào căn nhà bí ẩn của một nhà thơ nữ? Đây là bài thơ truyền đạt qua thể thơ tự do. Số chữ không đều trong mỗi câu. Số câu không đều trong mỗi đoạn. Số đoạn không có giới hạn trong bài. Sự so le và thoát khỏi ràng buộc này nói lên tình tiết diễn đạt qua thơ không bị tù túng, ý thơ không bị chật hẹp trong luật lệ. Phù hợp với cảm xúc thôi thúc, ngổn ngang của tác giả và tạo ra cảm giác kích động của độc giả
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Nếu phải tóm tắt các tác phẩm lớn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (1923-2025), có thể nói rằng ông đã phản ánh nỗi lòng của người trí thức Việt Nam cùng thế hệ, là những người bước vào tuổi 20 trong thời kháng chiến, chứng kiến sự đảo lộn của xã hội. Họ đã có thể có những phản ứng, hành động trước thời cuộc đó, nhưng phần nào bất lực không ngăn chặn được những xáo trộn xảy ra chung quanh. Truyện dài Dòng Sông Định Mệnh (1959) là một tác phẩm như thế. Ở mặt nổi, đó là một chuyện tình lãng mạn, hai người trẻ, một dòng sông. Nhưng sâu hơn, đó là bi kịch của những con người bị cắt đôi giữa lý tưởng và sự thật phũ phàng. Ở phương diện đó, Dòng Sông Định Mệnh có những chi tiết, những nhân vật hình mẫu sẽ trở lại trong bộ tiểu thuyết Khu Rừng Lau, nhất là tập Ba Sinh Hương Lửa (1962), mà ông sẽ viết sau này.
Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vừa từ trần vào lúc 10 giờ sáng ngày 14/10/2025 tại bệnh viện ở Nam California hưởng thọ 102 tuổi . Ông sanh năm Quí Hợi 1923 nên tính theo tuổi ta, ông thượng thọ 103 tuổi. Nhân đây, tưởng nhớ ông nên đắng lại bài viết Tác Phẩm Khu Rừng Lau Của Nhà Văn Doãn Quốc Sỹ vào ngày 5/11/2025
László Krasznahorkai – nhà văn Hungary vừa được trao giải Nobel văn chương – nổi tiếng với những câu văn dài như một hơi thở kìm nén, nơi ý tưởng đi qua địa ngục mà vẫn giữ vẻ điềm tĩnh của thiên thần. Một thiên thần lướt trên chúng ta là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách ấy: giữa bùn lầy chiến hào và tiếng pháo rít xé trên đầu, một người lính cụt chân, mắt mờ, lại giảng về văn minh số, về văn hóa như bản năng sinh tồn của loài người. Chiến tranh vẫn gầm thét, nhưng lời anh vẫn tuôn, dài, sáng, và lạ thay – đầy hy vọng. Bản Việt ngữ của Ngu Yên dịch từ bản Anh ngữ của John Batki, giữ nguyên nhịp câu, những đoạn văn dài như dòng suy tưởng không dứt.
Khoảng hai giờ trước khi Mats Malm, vị thư ký trầm tĩnh của Viện Hàn Lâm Thụy Điển, bước ra, thế giới vừa nghe tin: Israel và Hamas ký hiệp định hòa bình. Một mẩu tin nhỏ, nhưng làm cả hành tinh thở nhẹ. Có lẽ, nếu tinh ý, người ta đã thấy khóe miệng vị diễn giả ấy nhích lên một nụ cười như thể dành riêng cho nhân loại, sau khi đã hứng chịu quá nhiều tuyệt vọng. Và rồi, cái tên được xướng lên: László Krasznahorkai, nhà văn Hungary – kẻ viết những câu văn dài như cơn hấp hối, nhưng mỗi chữ lại sáng rực như ngọn đèn dầu giữa đêm mất điện. Một bất ngờ… mà thật ra chẳng mấy ai bất ngờ. Viện Hàn lâm Thụy Điển, như thường lệ, lại khiến người ta ngạc nhiên bằng cách không hề ngạc nhiên.
Phân lý chữ nghĩa Bùi Giáng là việc làm nghiêm túc một cách khôi hài. Phê bình thơ Bùi Giáng là khôi hài một cách nghiêm túc. Tôi chú ý đến hai đối cực hài hòa này vì càng suy nghĩ, càng lý luận, thì càng cảm nhận chất khôi hài trong thơ Bùi Giáng là một đặc sản. Thưởng thức thơ Bùi Giáng, trước hết là thú vị với cách thế đùa nghịch chữ nghĩa và tứ thơ của ông, tiếp theo là những ngạc nhiên về chất lượng ngộ nghĩnh và biến hóa trong ý nghĩ, tư tưởng của Bùi Giáng một cách sâu sắc và sự sâu sắc này mang đến lòng ngưỡng mộ, vì sự sâu sắc này mà chúng ta cần phải nghiêm túc.Trước Bùi Giáng có rất nhiều nhà thơ làm thơ hài hước nổi danh như Tú Xương, và các ông tú sau này. Hầu hết các nhà thơ thành danh đều có thơ hài hước, như Nguyễn Khuyến, Tản Đà, vân vân. Tuy nhiên, gần như những hài hước đó luôn kèm theo sự mỉa mai, nụ cười xách mé, mỉm cười khinh bỉ, nín cười che miệng, cười lớn chế nhạo. Trong khi chất khôi hài của Bùi Giáng qua thơ chỉ tạo ra nụ cười hoặc tức cười.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.