Hôm nay,  

Doãn Quốc Sỹ, một tâm hồn thấm đẫm tinh thần dân tộc

20/10/202523:15:00(Xem: 550)

 

BuiVanPhu_2025_1020_DoanQuocSy_H01_VanDongNhanQuyen

Các tổ chức nhân quyền lên tiếng cho nhà văn Doãn Quốc Sỹ và những tù nhân lương tâm bị Hà Nội giam giữ (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

Sống qua hơn một thế kỷ, nhà giáo, nhà văn Doãn Quốc Sỹ là nhân chứng của một giai đoạn lịch sử nước Việt đầy thăng trầm.

 

Giáo sư, nhà văn Doãn Quốc Sỹ vừa qua đời hôm 14/10/2025 tại Quận Cam, California, hưởng đại thọ 102 tuổi.

 

Khi tôi học lớp 10 và 11 ở trường Nguyễn Bá Tòng thì biết đến giáo sư Doãn Quốc Sỹ qua những tập sách khảo luận của ông về Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát mà tôi cần đọc thêm để làm bài trong giờ Việt văn với các thầy Thái Văn Khôi, Trần Bằng Phong và cũng để ôn bài cho kỳ thi Tú tài I.

 

Những năm sau đó tôi mới đọc Gìn vàng giữ ngọc, xuất bản năm 1960, và Sầu mây năm 1970, cùng vài tác phẩm khác nữa của Doãn Quốc Sỹ, một trí thức Hà Nội di cư vào sống trong Nam từ năm 1954, cùng với Mai Thảo, Nguyễn Đình Toàn và một số văn nghệ sĩ miền Bắc khác.

 

Gìn vàng giữ ngọc gồm 6 truyện ngắn: Khu vườn bên cửa sổ, Căn nhà hoangTiền kiếpCái chết của một ngườiHương nhân loạiChiếc chiếu hoa cạp diềuGìn vàng giữ ngọc. Qua những câu chuyện thời kháng chiến, chuyện tản cư của gia đình tác giả, dù trong hoàn cảnh nào thì tình thương yêu, tính nhân bản của nhân vật cũng được đề cao, dù có đói ăn, thiếu mặc hay đang sống trong hoàn cảnh giặc giã, chiến tranh.

 

Những điều về con người cộng sản trong phong trào Việt Minh, ông ghi lại trong chuyện Gìn vàng giữ ngọc, qua câu nói của một người thân trong gia đình: "Em nên nhớ anh Sơn bỏ ngoài kia vào đây cũng để tránh những thái độ soi mói vào đời tư một cách bất lịch sự, vô chính trị và vô… giáo dục như vậy." Đó là nguyên do khiến tác giả bỏ chiến khu về thành, sau năm năm theo kháng chiến chống Pháp từ 1946 đến 1951.

 

Truyện Khu vườn bên cửa sổ là cuộc tình lãng mạn của một "chàng" bác sĩ quân y với Linh, mà "chàng" sau này lại trở thành người yêu của Huyên. Linh và Huyên đều là sinh viên Đại học Văn khoa Sài Gòn, Linh học ban Anh văn, từng tu nghiệp Mỹ, có người yêu là sinh viên Việt đang học đại học Mỹ danh tiếng Cal Tech. Tính tình Linh cởi mở, hoạt bát tự nhiên, còn Huyên thì khép kín. Câu chuyện ghi lại nhiều biến cố lịch sử từ ngày gia đình các nhân vật ở Hà Nội, Thanh Hóa, Vĩnh Yên hay đã vào Tây Ninh, Sài Gòn.

BuiVanPhu_2025_1020_DoanQuocSy_H02_BiaSach
H02: Tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 

Từ chuyện tình của Linh, xuất bản lần đầu vào năm 1960, nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã ít nhiều giới thiệu nước Mỹ cho độc giả miền Nam, dù khi đó ông chưa đặt chân đến Hoa Kỳ.

Vì sự can thiệp của người Mỹ vào cuộc chiến, nên ông đã đưa văn hóa Mỹ và Việt vào trong nhiều tác phẩm. Dấu chân cát xóa ông viết trước ngày 30/4/1975 nhưng chưa kịp xuất bản, cho đến khi được in ở Hoa Kỳ sau đó. Trong tác phẩm này là câu chuyện của Chương, một sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã giải ngũ, được du học Mỹ với học bổng USAID. Qua Chương, nhiều nét văn hóa Việt-Mỹ đã giao thoa, như những bài dân ca: Đèn cùLý con sáoSe chỉ luồn kim nghe được ở nhà một giáo sư đại học người Mỹ; như phong cảnh, tập tục của người Mỹ trải dài từ West Virginia, New York, Illinois sang California; đến nền móng của Kitô giáo, triết lý của đạo Phật. Trong tác phẩm này còn có chuyện tình giữa chàng trai Việt, cựu Trung úy Biệt động quân tên Lĩnh và cô gái Mỹ tên Horthy, chọn tên Việt là Hoa.

 

Ở đây nhà văn muốn cho độc giả thấy khi nhắc đến Việt Nam thì chiến tranh không phải là trọng điểm mà ở đó còn có một nền văn hóa truyền thống lâu đời với nhiều nét đẹp.

Giáo sư Doãn Quốc Sỹ đã qua Mỹ tu nghiệp sư phạm hai năm, 1966-68, về nước ông viết Sầu mây kể lại những ngày ở Mỹ ông đã giới thiệu văn hóa Việt cho người Mỹ mũi cao, tóc vàng, mắt xanh.

 

Có lẽ vì thế Hà Nội đã xem ông là "biệt kích văn hóa" và đã bắt giam ông hai lần, từ năm 1976 đến 1980 và lần thứ hai từ 1984 đến 1991.

 

Sự việc ông bị bắt lần thứ hai liên qua đến tác phẩm Đi ông gửi ra nước ngoài, xuất bản lần đầu ở Pháp vào thập niên 1980, dưới bút danh Hồ Khanh.

 

Khi vận động trả tự do cho ông và các văn nghệ sĩ bị Hà Nội giam tù, tổ chức nhân quyền Ân xá Quốc tế đã ghi trong bản tường trình về trường hợp giam giữ nhà văn Doãn Quốc Sỹ khi ông bị báo chí nhà nước lên án là "cán bộ chiến tranh tâm lý của Mỹ", "văn chương phản cách mạng", "bóp méo sự thật lịch sử của kháng chiến", là "kẻ lợi dụng thời cơ".

 

Tháng 5/1984, ông bị bắt cùng với các văn nghệ sĩ như Hoàng Hải Thủy, Khuất Duy Trác, Nguyễn Hoạt, Dương Hùng Cường mà không bị đem ra xét xử trong nhiều năm.

 

Trước sự vận động của các tổ chức nhân quyền và áp lực của thế giới, tháng 4/1988, Hà Nội mới đem ông ra xử cùng với Hoàng Hải Thủy, Khuất Duy Trác, Trần Ngọc Tú, Nguyễn Thị Phước Lý và nhân viên bưu điện Nguyễn Thị Nhàn, bị cáo buộc đồng lõa đã giúp chuyển tác phẩm Đi của ông sang Pháp.

 

Ông bị kết án 10 năm tù, được thả vào tháng 11/1991 và đến Mỹ đoàn tụ cùng gia đình năm 1995.

 

Tác phẩm Đi gồm 19 chương, ông viết ở trong nước, ghi lại sinh hoạt đời sống của gia đình ông, của nhiều người Việt với hai lần di cư vào năm 1954 và cuộc di tản tháng 4/1975 và sau đó là làn sóng vượt biển. Ông viết về những khó khăn trong đời sống dưới chính quyền cộng sản qua chuyện lý lịch, chuyện dạy học và chuyện vượt biển của hàng trăm ngàn người Việt.

Văn chương của ông nhẹ nhàng, dù phác họa lên những đắng cay, đau khổ, ngang trái của đời ông, trong cuộc sống của người Việt, nhưng luôn ẩn chứa niềm tin vào tiền thân lịch sử của dân tộc.

 

Qua nhân vật hay những câu viết trong truyện ngắn Tiền kiếp cho thấy ông không ưa cộng sản vì "gieo bi quan, nghi ngờ trong giới trí thức" nên Tân, một nhân vật biểu tượng của con người ông, đã bỏ kháng chiến năm 1951 để về thành. Ông không thích nếp sống xa hoa của những người thực dân Pháp trên quê hương mình, qua hành động của Tân khi vứt bỏ những đồng năm hào, là biểu tượng của người Pháp đang đô hộ Việt Nam, xuống cống nước đen. Ở những chỗ khác trong tác phẩm, ông đã biểu lộ không ưa chủ thuyết tư bản, thể hiện trong chính sách của Mỹ, hay nếp sống hiện sinh được bàn tán nhiều ở Pháp trong những năm đầu thập niên 1960.

 

Qua tác phẩm, Doãn Quốc Sỹ đã thể hiện ông là một người Việt chân chính, với tinh thần dân tộc, yêu thương đất nước, tôn vinh những cái đẹp, những điều nhân bản trong cuộc sống, giá trị của tự do: "Chỉ những hiện thân của u tối, của thiển cận mới tưởng rằng nắm được quyền hành là nắm được lòng người."

 

Dù có bị chế độ cộng sản giam tù, ông vẫn tin vào con người nhân bản: "Người đâu có nhất thiết tạo thành địa ngục cho nhau, nhất thiết là đao phủ của nhau."

 

Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán.

 

Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu.

 

Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.

 

Năm 1956, ông là người đồng sáng lập ra nhóm Sáng Tạo, cùng với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh, Ngọc Dũng, tạo ra diễn đàn sinh hoạt văn chương, xuất bản tác phẩm, tạp chí. Có thể nói ông là một trong những văn nghệ sĩ đã khai sinh ra nền văn học Việt Nam Cộng hòa với hàng chục nhà xuất bản đã phát hành cả ngàn tác phẩm văn học đủ thể loại trong 20 năm.

 

Cuộc đời của nhà văn Doãn Quốc Sỹ trải qua 102 năm, hơn một thế kỷ, nên ông đã là chứng nhân của lịch sử.

 

Với 25 tác phẩm để lại cho đời, đáng chú ý nhất là bộ trường thiên tiểu thuyết Khu rừng lau gồm bốn quyển, với gần hai ngàn trang sách: Ba sinh hương lửaNgười đàn bà bên kia vĩ tuyếnTình yêu thánh hóa và Đàm thoại độc thoại, ghi lại những biến động của đất nước qua các cuộc chiến tranh chống Pháp từ đầu thập niên 1930 cho đến chiến tranh Việt Nam khi lên cao điểm vào thập niên 1960, với sự can dự mạnh mẽ của Hoa Kỳ.

 

Sau khi chiến tranh Việt Nam chấm đứt, với tác phẩm Đi viết về đời sống và hoàn cảnh của người Việt sau ngày 30/4/1975, nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã để lại cho thế hệ mai sau một bộ trường thiên tiểu thuyết 5 quyển phản ánh con người và nước Việt qua một giai đoạn với nhiều thăng trầm của lịch sử nhưng vẫn giữ được hồn dân tộc.

  • Tác giả Bùi Văn Phú dạy đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco, California.

 
Bùi Văn Phú

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.