Hôm nay,  

Liệu Mô Não Nuôi Cấy Trong Phòng Thí Nghiệm Có Biết Đau?

24/10/202500:00:00(Xem: 266)

Mo nao

Những “mô não tí hon” được tạo ra từ tế bào gốc đang ngày càng phát triển, đến mức có thể có ý thức và biết đau. Các khoa học gia đang tranh luận về vấn đề đạo đức khi làm nghiên cứu với các mô não này trong tương lai. (Nguồn: pixabay.com)


Trong nhiều năm, các khoa học gia đã cho rằng “mô não nuôi cấy trong phòng thí nghiệm” (brain organoids) còn quá đơn giản để có thể suy nghĩ hay cảm nhận, nên các quy định nghiên cứu về lĩnh vực này còn khá lỏng lẻo. Nhiều người thường liên tưởng đến hình ảnh những bộ não “siêu việt” như trong các phim khoa học viễn tưởng, nhưng thực tế đó chỉ mới là những khối mô đơn giản, chưa thể hoạt động như một bộ não hoàn chỉnh.
 
Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đã bắt đầu cảnh báo rằng chúng ta đang xem thường các mô não này.
 
Có thể vì sợ mang tiếng là bị lậm phim khoa học viễn tưởng, các khoa học gia đang đánh giá thấp vấn đề,” Christopher Wood, một nhà nghiên cứu đạo đức sinh học tại Đại học Chiết Giang (TQ), chia sẻ. Trong một bài viết trên tạp chí Patterns, Wood và các đồng nghiệp cho rằng công nghệ phát triển sẽ sớm tạo ra các mô não có ý thức (conscious).
 
Vậy sẽ thế nào nếu một mẫu vật trong phòng thí nghiệm có thể cảm thấy đau đớn, hoặc có những suy nghĩ của riêng nó? Theo Boyd Lomax, nhà thần kinh học tại Đại học Johns Hopkins, để một mô não có ý thức phải chịu đựng những điều đó là phi đạo đức.
 
Bài toán nan giải mang tên “ý thức”
 
Điểm mấu chốt ở đây, “ý thức” (consciousness) vốn là một khái niệm rất khó để định nghĩa. Hầu hết các khoa học gia thần kinh định nghĩa “ý thức” là sự tự tỉnh thức (awareness) tức là biết mình là ai, đang làm gì, và đang ở đâu, hoặc khả năng cảm giác. Nhưng chưa có được một định nghĩa nào mà tất cả mọi người đồng thuận.
 
Các mô não hiện tại, dù có cấu trúc 3D mô phỏng não của phôi thai, vẫn chỉ giống một phần nhỏ của bộ não và có kích thước chưa tới 4 mm. Chúng không có các giác quan như thị giác hay thính giác để nhìn và nghe thấy môi trường xung quanh. Tuy nhiên, các chuyên gia lo ngại về khả năng cảm giác được đau đớn. Ở người, dấu hiệu đau có thể được gửi từ các màng não, và trong tương lai, cấu trúc tương tự có thể xuất hiện ở các mô não nuôi cấy.
 
Lomax giải thích: “Nếu một mô não có cấu trúc thần kinh bên trong đủ để tạo ra dấu hiệu của cảm giác đau, thì sẽ không cần dấu hiệu kích thích từ bên ngoài.” Điều này tương tự như hiện tượng “ảo giác cơn đau” (phantom pain) ở những người đã mất đi một phần cơ thể. Tuy nhiên, theo Wood, việc mô não có trải qua trạng thái tương tự hay không vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Bởi vì ảo giác cơn đau ở con người thường là tái hiện lại ký ức về phần cơ thể đã bị mất, mà mô não nuôi cấy chưa được chứng minh là có khả năng đó.
 
Làm sao đo được điều không thể thấy?
 
Đo lường ý thức là một việc phức tạp, bởi vì chúng ta không có công cụ đo lường khách quan, ngay cả ở con người. Cách chắc chắn nhất để xác nhận sự tồn tại của ý thức là hỏi trực tiếp, nhưng điều này bất khả thi với những ai không thể nói, thí dụ như bệnh nhân hôn mê, người mắc locked-in syndrome – bị tê liệt toàn thân (trừ cử động mắt) nhưng vẫn còn ý thức, có thể nghe, nhìn – và dĩ nhiên, có cả các mô não nuôi cấy.
 
Các bác sĩ sẽ phải dựa vào những dấu hiệu gián tiếp như điện não đồ, hay mức độ phức tạp của tín hiệu thần kinh khi não phản ứng lại các tác nhân kích thích. Nhưng trớ trêu thay, một số dấu hiệu này lại có thể xuất hiện ngay cả ở những tế bào thần kinh nuôi cấy trên đĩa petri, nên cũng không phải là thước đo đáng tin cậy.
 
Tương lai đang đến rất gần
 
Những người hoài nghi cho rằng cấu trúc mô não nuôi cấy hiện nay quá đơn giản, chưa đủ độ phức tạp để hình thành ý thức. Nhưng tiến bộ công nghệ sẽ sớm biến chúng thành những cấu trúc phức tạp hơn.
 
Wood dự đoán, chỉ trong 5 đến 10 năm tới, khoa học gia có thể tạo ra các mô não phức tạp có ý thức. Gần đây, các nghiên cứu đã thành công đưa mạch máu và các loại tế bào mới vào mô não nuôi cấy. Trước đó, họ thậm chí đã tạo ra các mô có “mắt thô” (rudimentary eyes) và hàng rào máu não (blood-brain barriers). Họ còn có thể gom nhiều mô riêng lẻ thành khối mô (assembloids) để mô phỏng sự tương tác giữa các vùng não. Về lý thuyết, một khối mô não như vậy hoàn toàn có thể biết đau.
 
Đã đến lúc thay đổi luật?
 
Hiện tại, Hội Các Nhà Nghiên Cứu Tế Bào Gốc Quốc Tế (ISSCR) vẫn cho rằng các mô não nuôi cấy không biết đau, nên các quy định vẫn còn khá thoáng. Tuy nhiên, trước những tiến bộ khoa học như vũ bão, nhiều chuyên gia kêu gọi phải xem xét lại.
 
Alysson Muotri, nhà sáng lập công ty Tismoo, nhấn mạnh: “Quan điểm hiện nay của ISSCR là quá bảo thủ. Quy định phải được thiết kế lại bởi một hội đồng đa ngành, chứ không thể chỉ do giới sinh học tế bào gốc quyết định.
 
Cuộc tranh luận hiện nay chia thành nhiều luồng ý kiến. Một số chuyên gia như Wood cho rằng “một mô não mà có ý thức thì cũng phải có quyền lợi.” Trong khi đó, nhà đạo đức học về thần kinh Andrea Lavazza lại không cho rằng việc tạo ra chúng là phi đạo đức, vì “các khoa học gia vẫn thường làm thí nghiệm trên nhiều sinh vật có ý thức khác như chuột.” Lomax thì cho rằng nếu mô não có ý thức, chúng cần được bảo vệ bởi các quy định tương tự như khi làm thí nghiệm trên động vật.
 
Giống như viễn ảnh trong tiểu thuyết, những bộ não nhân tạo rồi sẽ sớm trở thành hiện thực. Việc thống nhất các quy định chắc chắn sẽ không dễ dàng, nhưng Wood cho rằng nếu không có bằng chứng rõ ràng để bác bỏ, thì cộng đồng khoa học không nên vội vàng phủ định việc các mô não nuôi cấy có thể biết đau.

VB biên dịch
Nguồn: “Tiny 'brains' grown in the lab could become conscious and feel pain — and we're not ready” được đăng trên trang Livescience.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nói đến mãn kinh (menopause), nhiều người thường nghĩ ngay đó là cột mốc khép lại khả năng sinh sản của người phụ nữ. Nhưng đằng sau sự thay đổi sinh học ấy là một cuộc “tái cấu trúc” thầm lặng trong não bộ: hormone, trí nhớ, tâm trạng và giấc ngủ đan xen những thay đổi phức tạp.
Sau hơn một năm bùng phát dịch sởi với hàng ngàn ca nhiễm, ngày 10 tháng 11, 2025, Tổ chức Y tế Liên Mỹ (PAHO) – cơ quan khu vực của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) – đã chính thức rút lại danh hiệu “quốc gia không còn bệnh sởi” của Canada. Quyết định được đưa ra tại cuộc họp của Ủy ban loại trừ bệnh sởi khu vực châu Mỹ tổ chức ở Mexico City. Là nhà dịch tễ học chuyên nghiên cứu sự lan truyền của bệnh truyền nhiễm, tác giả cho biết kết quả này không gây ngạc nhiên: sởi là một trong những bệnh dễ lây nhất, và việc tỉ lệ chích ngừa ở trẻ em tại Canada cùng nhiều quốc gia khác sụt giảm đã khiến hàng loạt trẻ mất khả năng bảo vệ.
Từ bao năm nay, giấc ngủ đông chỉ tồn tại trong tiểu thuyết và điện ảnh – từ 2001: A Space Odyssey đến Passengers. Nhưng ở Pittsburgh, các nhà khoa học đang từng bước biến viễn cảnh ấy thành thật. Trong một căn phòng tối của Phòng Thí Nghiệm Sinh Lý Ứng Dụng, bác sĩ Clifton Callaway – chuyên gia tim mạch và hạ thân nhiệt nhân tạo – đã đưa một người tình nguyện vào trạng thái mà ông gọi là “giấc ngủ chạng vạng.” Sau 18 giờ dùng thuốc an thần đặc biệt dexmedetomidine, thân nhiệt người ấy hạ từ 98,6°F xuống 95°F. Nhịp tim và huyết áp đều giảm, tốc độ trao đổi chất hạ 20%. Nhưng người ấy vẫn đủ tỉnh táo để đứng dậy, đi vệ sinh, gọi ăn – không cần máy thở hay dây truyền dịch.
Giới khoa học vừa đạt thêm một bước tiến quan trọng trong cuộc chiến chống ung thư: phát hiện một loại protein có thể điều chỉnh để khiến các tế bào ung thư tự hủy diệt từ bên trong. Hai nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Nature đã tập trung làm rõ vai trò của một enzyme mang tên ferroptosis suppressor protein 1 (FSP1). Enzyme này là “lá chắn” quan trọng giúp tế bào tránh một kiểu chết đặc biệt (bị phân rã từ trong ra ngoài). Khi loại bỏ lá chắn này, khả năng sống sót của tế bào giảm mạnh; và nếu đó là tế bào ung thư, khối u sẽ phát triển chậm lại đáng kể.
Thử lướt một vòng trên các trang mạng xã hội, quý vị sẽ thấy các “tín đồ” của chế độ dinh dưỡng carnivore (chỉ ăn thịt) với hàng loạt hình ảnh: dĩa steak cao như núi, burger béo ngậy phủ đầy bơ, những miếng sườn nướng óng ánh chất chồng. Tuyệt nhiên không có lấy một miếng rau xanh, dù chỉ là một cọng ngò trang trí.
Một nhóm khoa học gia quốc tế vừa công bố trong Tạp chí Y khoa New England rằng họ đã phục hồi được một phần thị lực cho những người cao tuổi bị thoái hóa điểm vàng – căn bệnh mắt phổ biến và gần như không thể chữa trị trước đây. Thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (Age-related Macular Degeneration – AMD) là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa ở người trên 50 tuổi, ảnh hưởng đến khoảng 200 triệu người trên thế giới. Căn bệnh xảy ra khi các tế bào cảm quang ở trung tâm võng mạc bị tổn thương do lão hóa, khiến bệnh nhân mất dần khả năng nhìn rõ các chi tiết ở trung tâm tầm nhìn.
Theo một nghiên cứu mới, vắc-xin HPV không chỉ tạo ra hàng rào bảo vệ vững chắc cho người được chích, mà còn tạo ra một “tấm lá chắn vô hình” che chở cho cả những người chưa chủng ngừa, mở ra hy vọng về một tương lai không còn nỗi ám ảnh mang tên ung thư cổ tử cung. Nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Pediatrics, thực hiện tại thành phố Cincinnati (Hoa Kỳ) từ năm 2006 đến 2023. Có 2,335 thiếu nữ và phụ nữ trẻ (từ 13 đến 26 tuổi) tham gia nghiên cứu, trong đó nhiều người thuộc nhóm có cơ nguy nhiễm HPV cao vì có nhiều bạn tình hoặc từng mắc bệnh lây qua đường tình dục.
Từ nhỏ, Dustin Chandler đã luôn bị thầy cô phàn nàn vì không bao giờ làm bài tập về nhà. Trong mắt mọi người, Chandler là một cậu học trò “lười biếng.” Nhiều năm sau, khi mẹ anh, lúc này đang làm việc tại một phòng khám nhi khoa, nhìn thấy anh loay hoay sửa sang căn nhà đầu tiên, bà mới nhận ra có điều gì đó không ổn. “Con à,” bà nói, “có lẽ con cần đi khám bệnh xem có bị ADHD không.”Năm 25 tuổi, Chandler được chẩn bệnh là mắc chứng rối loạn tăng động/giảm chú ý (ADHD, một bệnh tiến triển do sự thiếu chú ý và đãng trí, kém hoặc không tăng hoạt động). Khi biết bệnh này có thể di truyền, vợ chồng Chandler bắt đầu theo dõi những dấu hiệu tương tự ở các con. Bé gái thứ hai khá giống cha: ít nói và hay mơ màng. Cô bé thích đọc sách một mình; khi được thầy cô dạy riêng, bé học rất tốt. Nhưng đến lúc vào tiểu học, hai vợ chồng bắt đầu thấy lo.
Vì sao có người giống như “cục nam châm” hút muỗi, bị chích liên tục, trong khi người ngồi ngay bên cạnh lại chẳng hề hấn gì? Có lẽ đây là câu hỏi khiến nhiều người băn khoăn mỗi độ hè về. Để tìm câu trả lời, một nhóm khoa học gia Hà Lan đã tìm đến lễ hội âm nhạc Lowlands. Tháng 8 năm 2023, nhà sinh học Sara Lynn Blanken và các cộng sự tại Trung tâm Y tế Đại học Radboud đã dựng một “phòng thí nghiệm dã chiến” trong các thùng hàng container ngay tại lễ hội. Hàng trăm người tham dự lễ hội hào hứng ghi danh: họ điền bảng thăm dò về giấc ngủ, chế độ dinh dưỡng, thói quen tắm rửa, nhóm máu và việc sử dụng chất kích thích. Các khoa học gia còn đo hơi cồn của họ bằng máy thở, lấy mẫu da, rồi cho từng người đưa cánh tay áp sát lồng nhựa chứa muỗi cái Anopheles stephensi. Lồng chỉ có các lỗ nhỏ cho phép muỗi “ngửi” mà không thể chích, và có gắn camera ghi lại mọi cử động và phản ứng của muỗi với từng người
Khi tiết thu mát lạnh trở lại, mùa cảm cúm cũng theo đó mà về – với những cơn hắt hơi, sốt nhẹ, và cơn ho quen thuộc. Mỗi năm, cúm (influenza) khiến hàng triệu người mắc bệnh. Phần lớn chỉ bị nhẹ hoặc trung bình, nhưng vẫn có nhiều trường hợp nặng, phải nhập viện, thậm chí tử vong. Điều quan trọng là: virus cúm thay đổi mỗi năm. Do đó, việc chích ngừa hàng năm vẫn là cách hữu hiệu nhất để tự bảo vệ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.