Từ nhỏ, Dustin Chandler đã luôn bị thầy cô phàn nàn vì không bao giờ làm bài tập về nhà. Trong mắt mọi người, Chandler là một cậu học trò “lười biếng.” Nhiều năm sau, khi mẹ anh, lúc này đang làm việc tại một phòng khám nhi khoa, nhìn thấy anh loay hoay sửa sang căn nhà đầu tiên, bà mới nhận ra có điều gì đó không ổn. “Con à,” bà nói, “có lẽ con cần đi khám bệnh xem có bị ADHD không.”
Năm 25 tuổi, Chandler được chẩn bệnh là mắc chứng rối loạn tăng động/giảm chú ý (ADHD, một bệnh tiến triển do sự thiếu chú ý và đãng trí, kém hoặc không tăng hoạt động). Khi biết bệnh này có thể di truyền, vợ chồng Chandler bắt đầu theo dõi những dấu hiệu tương tự ở các con. Bé gái thứ hai khá giống cha: ít nói và hay mơ màng. Cô bé thích đọc sách một mình; khi được thầy cô dạy riêng, bé học rất tốt. Nhưng đến lúc vào tiểu học, hai vợ chồng bắt đầu thấy lo. Trong một cuộc thi toán, học sinh phải giải thật nhanh nhiều bài toán trong vòng một phút, cô bé làm bài quá chậm. Năm học lớp Hai, bé được chẩn bệnh là mắc ADHD.
Các bác sĩ và nhà nghiên cứu hiện vẫn chưa tìm được nguyên nhân chính xác gây ra ADHD. Theo giáo sư Stephen Rush, chuyên gia tâm thần học tại Đại học Cincinnati, nguyên nhân thường được cho là do yếu tố di truyền và các hoạt động diễn ra trong não bộ. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng có đến 80% người bị ADHD có những yếu tố di truyền giống nhau, rất khác so với những người không bị.
Các khoa học gia gần đây đã phát hiện ra não bộ của người mắc ADHD không hoạt động giống như người bình thường, đặc biệt là đối với dopamine và norepinephrine. Đây là hai chất quan trọng giúp chúng ta tỉnh táo và tập trung. Nhưng ở người mắc ADHD, dopamine và norepinephrine bị tiêu hao nhanh hơn, khiến họ rất khó tập trung, chú ý điều gì đó.
“Dopamine giúp ta có động lực, tập trung và cảm nhận được phần thưởng,” bác sĩ Frances Javier, chuyên gia tâm thần học kiêm giám đốc y khoa tại Neuro Wellness Spa (California) giải thích. “Còn norepinephrine thì giúp ta tỉnh táo, chú ý và thấy thích thú. Hai chất này cũng là mục tiêu chính của các loại thuốc điều trị ADHD.”
Yếu tố di truyền cũng có thể liên quan đến sự thay đổi trong não bộ khiến bệnh nhân ADHD khó kiểm soát cảm xúc và tập trung. Rush cho biết: “Cấu trúc gene trong não của chúng ta rất phức tạp. Có hàng trăm gene khác nhau, mỗi gene ảnh hưởng một phần nhỏ, và chính sự kết hợp đó, cùng với tác động của môi trường sống, góp phần làm tăng cơ nguy mắc ADHD.”
Các nghiên cứu di truyền học mới đang dần tìm ra những gene góp phần hình thành ADHD. Một nghiên cứu đăng trên Nature Genetics đã phát hiện nhiều gene hoạt động mạnh trong giai đoạn phát triển của não bộ. Theo Sandra K. Loo, Giám đốc khoa Thần kinh Nhi khoa và Giáo sư Tâm thần học tại Trường Y Khoa David Geffen thuộc UCLA, “nhiều nghiên cứu gần đây nhận thấy có 27 biến thể gene thường gặp ở người bị ADHD. Càng có nhiều những biến thể này thì cơ nguy mắc bệnh càng cao.”
Tuy nhiên, không phải ai bị ADHD cũng do cùng một nguyên nhân. Mỗi người đều có sự kết hợp khác nhau của nhiều yếu tố. Javier cho biết: “Gene của chúng ta chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường sống và cách các gene tương tác với nhau. Vì vậy, cơ địa, mức độ tiếp xúc với hóa chất, môi trường sống xung quanh hay thói quen ăn uống đều có thể ảnh hưởng đến việc ADHD sẽ hình thành và biểu hiện ra sao.”
Trường hợp của Chandler có vẻ là di truyền từ cha sang con, nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng một số yếu tố trong thai kỳ hoặc sau khi vừa chào đời cũng có thể góp phần gây ra bệnh. “Có mối liên quan chặt chẽ giữa ADHD và các yếu tố như người mẹ hút thuốc, mập phì, tiền sản giật trong thai kỳ hoặc sử dụng acetaminophen. Riêng tác động của acetaminophen vẫn còn gây nhiều tranh cãi,” Rush cho hay.
Một nghiên cứu đăng trên Tạp chí Tâm lý và Tâm thần Trẻ em (Journal of Child Psychology and Psychiatry) cũng chỉ ra rằng nếu bị nhiễm trùng khi mang thai, nhất là khi người mẹ bị sốt, có thể làm gián đoạn sự phát triển não bộ của thai nhi. Javier chia sẻ: “Điều này cũng phần nào lý giải cho giả thuyết tại sao trẻ sinh ra vào tháng 9 về sau dễ bị mắc ADHD (thường trùng với mùa đông, khi bệnh truyền nhiễm lưu hành nhiều, mẹ dễ mắc bệnh và sốt).” Tuy nhiên, bà cũng lưu ý rằng hiện tượng này có thể bị ảnh hưởng bởi thời điểm tuyển sinh của trường học: những trẻ sinh vào cuối năm thường nhỏ tuổi nhất trong lớp và dễ bị chẩn bệnh ADHD do chậm phát triển hơn so với các bạn cùng trang lứa.
Ngoài các yếu tố trong thai kỳ, môi trường cũng có thể góp phần dẫn tới bệnh ADHD. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa việc tiếp xúc với chì ở trẻ nhỏ và các triệu chứng của ADHD. Các hóa chất trong đồ nhựa như phthalates và bisphenol A (BPA) cũng bị nghi ngờ có liên quan. Loo cho biết: “Trong số các hóa chất độc hại, tiếp xúc với lượng chì cao có liên quan mạnh nhất với cơ nguy bị ADHD.”
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các yếu tố di truyền và môi trường vẫn chưa được nghiên cứu tường tận. Theo Rush, có rất nhiều yếu tố cùng góp phần gây ra những thay đổi trong não bộ, và chúng ta gọi chung là ADHD vì những triệu chứng mà các thay đổi đó tạo ra.
Học cách thích nghi để sống tốt hơn
Với Chandler, hiểu rõ căn bệnh đã giúp anh và gia đình thích nghi dễ dàng hơn trong cuộc sống thường ngày. Anh hiện đang làm kỹ thuật viên, tận dụng sự khéo tay, tỉ mỉ trong công việc và niềm đam mê mô tô. Sau khi con gái được chẩn bệnh bị ADHD và học trong trường công được vài năm, vợ chồng anh quyết định cho bé học tại nhà. Cô bé tiến bộ rất nhanh vì được học theo tốc độ phù hợp với mình.
Giờ đây, cô bé đã là thiếu nữ, rất yêu thích các môn giải phẫu học và sinh học. Cô đang chuẩn bị theo học chương trình đào tạo nghề hàn, có vẻ đang đi theo con đường của cha mình. Đặc biệt, cô vừa mua chiếc mô tô đầu tiên. Chandler mỉm cười: “Dù ở trong bất kỳ nền văn hóa nào, chúng ta đều có thể góp phần giúp xã hội tiến bộ hơn, cởi mở hơn, thấu hiểu và chấp nhận mọi người sống đúng với con người thật của họ.”
Nguồn: “How to determine if you’re at risk for adult ADHD” được đăng trên trang NationalGeographic.com.
Gửi ý kiến của bạn



