Hôm nay,  

Nhân Chuyện Tăng Lương Lại Nghĩ Về Dân Nghèo

30/10/200700:00:00(Xem: 9166)

Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã trình Chính phủ phương án điều chỉnh lương tối thiểu trong doanh nghiệp. Dự kiến từ ngày 1-1-2008, lao động làm việc ở cả khối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đều được điều chỉnh lương tối thiểu, mức cao nhất là 1 triệu đồng.

Hiện nay cả nước có khoảng 1 triệu lao động làm việc trong khối doanh nghiệp FDI, 2 triệu lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước, khối doanh nghiệp dân doanh (Doanh nghiệp tư nhân) thu hút số lao động đông nhất khoảng 3 triệu. Tăng lương tối thiểu không có nghĩa tất cả các lao động đều được tăng lương, đó là mức thấp nhất (mức sàn) mà doanh nghiệp phải trả cho một lao động làm việc giản đơn trong điều kiện bình thường.

Nhân chuyện tăng lương lại nghĩ về dân nghèo. Chính phủ vẫn luôn tự hào về thành tích “Xoá đói giảm nghèo”, nước ta “tự hào” đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất. Tuy nhiên thành tích đó chỉ nói lên dân ta còn quá nghèo và lạc hậu.

Khi nói đến đời sống của người dân thì trước tiên phải quan tâm đến nông dân, bao gồm cả người làm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp, họ đang chiếm hơn 70% dân số. Đối tượng thứ 2 phải quan tâm là công nhân, họ là lực lượng “Tiền phong” của cách mạng, hiện đang chiếm gần 10% dân số. Vậy ai là người nghèo" Đó là những người công nhân làm việc giản đơn và chỉ nhận mức lương tối thiểu, ngoài ra không có thêm thu nhập nào khác, là những người nông dân quanh năm “bán mặt cho đất bán lưng cho trời” mà vẫn không đủ ăn, và cả những người dân tộc thiểu số chủ yếu sống bằng tự cung tự cấp. Tất cả họ đều nghèo, cho dù lương tối thiểu có tăng gấp 2 hay gấp 3 lần hiện nay thì họ vẫn nghèo. Như vậy khoảng 80% dân số Việt Nam vẫn thuộc diện nghèo, trong đó quá nửa là thiếu đói.

Điều chỉnh lương tối thiểu chỉ là một giải pháp tình thế nhằm tránh một cuộc khủng hoẳng kinh tế do giá cả leo thang. Tăng lương có nghĩa là lạm phát gia tăng chứ không phải nâng cao mức sống của người dân. Chính phủ đã tỏ ra bất lực, các công cụ điều tiết nền kinh tế trở nên bất lực; Giá cả leo thang nhanh hơn nhiều lần tăng lương, tăng trưởng kinh tế không theo kịp lạm phát, do đó mức sống của dân ngày càng xuống thấp. Theo Tổng cục Thống kê công bố chỉ số giá cả (CPI) liên tục tăng cao trong những tháng qua, mức tăng trong tháng 7-2007 đã đạt 0,94% và sẽ còn tăng cao trong những tháng tới.

Do đâu mà Việt Nam loay hoay mãi mà chưa giải được bài toán kinh tế" Nguyên nhân sâu xa xuất phát từ công tác lý luận và thực tiễn xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCH. Thứ nhất chúng ta chưa bao giờ có nền kinh tế thị trường, thế giới chưa công nhận nền kinh tế Việt Nam là kinh tế thị trường. Thứ hai cái gọi là XHCN chỉ là chiêu bài để Đảng Cộng sản áp đặt sự thống trị lên xã hội, trong khi XHCN hiện thực đã sụp đổ ngay trên đất nước quê hương của nó.

Việt Nam đã đi sau các nước phát triển phương Tây nhiều thế kỷ, ở các nước này nền kinh tế thị trường đã có trên 200 năm, các học thuyết kinh tế của họ có bề dày lịch sử và giá trị khoa học cao, được ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn. Đó là xã hội hiện thực, còn xã hội XHCN chỉ tồn tại trên lý thuyết. Chính Đảng Cộng sản cũng khẳng định mục tiêu phấn đấu vì một xã hội “dân giàu nước mạnh”, vậy tại sao không từ bỏ cái viển vông không tưởng để theo đuổi cái hiện thực cụ thể. Có phải vì họ không thể thoát khỏi sự lệ thuộc vào “người anh cả” Trung Quốc"

Công cuộc xây dựng XHCN đặc sắc Trung Quốc thực chất chính là xây dựng một triều đại phong kiến trá hình, trong đó tầng lớp Quan chức Cộng sản liên kết với giới chủ để bóc lột dân. Gọi là XHCN đặc sắc Trung Quốc hay TBCN đặc sắc Trung Quốc đều đúng, ranh giới giữa hai hình thái xã hội rất mong manh; Chính trị thì theo XHCN còn kinh tế thì theo TBCN, chẳng khác nào đầu người mình ngựa. Các lý luận gia Cộng sản tô vẽ ra các học thuyết mà thực chất chỉ là chiêu bài để lừa dối nhân dân.

Không thể học Trung Quốc được, quốc gia đông dân nhất thế giới này chưa bao giờ có XHCN mà chỉ có chủ nghĩa bá quyền, áp bức các quốc gia láng giềng, mang tham vọng thống trị thế giới. Chế độ Cộng sản Trung Quốc là một triều đại phong kiến trá hình, cái thế lực phong kiến đó sẵn sàng nuốt chửng Việt Nam như chúng đã từng làm trong quá khứ. Chúng kìm hãm sự phát triển của nước ta để dễ bề thao túng, biến nước ta thành tấm lá chắn bảo vệ Quyền uy Thiên triều, khiến dân ta nghèo khổ, nước ta yếu hèn.

Phải lệ thuộc vào Trung Quốc đó là nỗi ô nhục mà ngàn đời nay dân ta đã chịu đựng, chẳng nhẽ Đảng Cộng sản Việt Nam muốn đi theo vết xe đổ hay sao. Chính ông Hồ Chí Minh phải có tránh nhiệm đối với đất nước khi đem nhập khẩu tư tưởng Mao Trạch Đông gây ra biết bao tội ác. Các thế hệ lãnh đạo ngày nay tiếp tục phạm sai lầm khi học theo kinh nghiệm xây dựng XHCN của Trung Quốc. Đảng Cộng sản đang ngày càng ngập sâu vào vết xe đổ, trở thành chư hầu của Bắc Triều, họ bán đất bán biển, ngoan ngoãn làm theo các chỉ thị của Bắc Kinh.

Nếu không thoát khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc thì đất nước không có cơ hội để phát triển, nước sẽ nghèo dân sẽ khổ. Không chỉ người dân Việt Nam mà người dân các nước láng giềng khác của Trung Quốc như Bắc Triều Tiên và Myanmar đều phải sống trong cảnh nghèo đói, họ tỉnh táo nhận ra rằng “Không thời nào làm dân khổ như thời Cộng sản, và cũng không thời nào làm quan sướng như thời Cộng sản. Chưa bao giờ trong lịch sử đất nước việc chính quyền lừa dối dân, tham ô, mua quan bán chức lại diễn ra phổ biến và tràn lan như thời Cộng sản. Lá cờ đỏ búa liềm như cái búa đè lên đầu dân và chiếc liềm kè vào cổ dân.”

Vậy phải học ai" Xin dành câu trả lời cho các vị lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nếu các vị tự cho mình là đại biểu trung thành lợi ích của dân tộc, của đất nước, thì hãy làm những gì xuất phát từ nguyện vọng của người dân, lắng nghe ý kiến của dân, giải quyết những bức xúc của dân. Không phải ông Mác hay ông Lênin, cũng không phải ông Hồ Chí Minh, mà chính nhân dân mới là người thầy vĩ đại mà Đảng Cộng sản phải học tập và làm theo.Sài gòn ngày 28 tháng 10 năm 2007

ĐDCND, http://ddcnd.org/main/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.