Hôm nay,  

Thu Về Chuyện Trò Với Thơ

30/09/201511:10:00(Xem: 5239)


Thu Về Chuyện Trò Với Thơ
 
Ngự Thuyết

Bài viết này muốn nói về vài vấn đề trong Thơ, nhưng xin được mở đầu bằng một mẩu chuyện nhỏ trong văn xuôi có liên quan.

Tác phẩm Vang Bóng Một Thời (Tân Dân – Hà Nội, 1940 ) của Nguyễn Tuân ra đời cách đây trên 70 năm, cho đến nay vẫn được nhiều nhà phê bình văn học đánh giá cao. Vũ Ngọc Phan, đồng thời với Nguyễn Tuân, trong Nhà Văn Hiện Đại (Tân Dân – Hà Nội, 1942) nhận xét về tập truyện Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân như sau: “Tác phẩm đầu tay của ông là một văn phẩm gần tới sự toàn thiện toàn mỹ.” Quả thế, những truyện ngắn, bút ký trong Vang Bóng Một Thời đều có giá tri, và, cũng theo Vũ Ngọc Phan, “Tập bút ký này của Nguyễn Tuân thật là một tập rất qúy. Cái quý giá ấy sẽ còn tăng lên nữa với thời gian, như một thứ đồ cổ vậy.”

Truyện Báo Oán trong Vang Bóng Một Thời bắt đầu bằng hai đoạn văn ngắn sau đây:

“Ở cuốn lịch năm ấy bìa vàng nhòe nét son dấu kìm ấn tòa Khâm Thên Giám có niên hiệu Duy Tân thập niên, người ta thấy tiết thu phân và ngày lập thu qua đã lâu rồi.

Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt nước mắt triền miên than vãn của kỳ thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ. Xứ đồng chiêm Sơn Nam Hạ đã biến thành một vùng nước mất hẳn bờ trên đó nhấp nhô những con đò đồng lí tí. Ngọn sóng đồng hỗn loạn vỗ tung bùng vào mép những con đường đất thó nhuyễn và những lũy tre già ướt át. Làng mạc vùng quê Nam Định nhoi lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo hoang vu.”

Đó là những câu văn xuôi nghe như thơ, đầy hình ảnh của quá khứ, man mác hoài cổ, đầy thi vị, đầy nhạc điệu. Chữ dùng lại rất tinh vi, chọn lọc, những từ Hán Việt cũng được sử dụng một cách thích đáng. Thế nhưng trong tập truyện Yêu Ngôn của Nguyễn Tuân (Nguyễn Đăng Mạnh sưu tầm và giới thiệu, in lần thứ II, Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn, 65 Nguyễn Du – Hà Nội, 2005), truyện Báo Oán được/bị đổi tên thành Khoa Thi Cuối Cùng, và hai đoạn nói trên được/bị sửa lại như sau:

“Ở cuốn lịch niên hiệu Duy Tân năm thứ mười, bìa vàng nhòe nét son dấu kìm ấn toà Khâm Thiên Gíám, thấy tiết thu phân và ngày lập thu qua đã lâu rồi.

Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt than vãn triền miên của kỳ Ngâu còn kéo dài mãi đến bây giờ. Xứ đồng chiêm Sơn Nam hạ đã biến thành một vùng nước rộng nhấp nhô những con đò đồng li ti. Sóng đồng hỗn loạn vỗ vào mép những con đường đất thó nhuyễn và những bờ lũy tre già ướt át. Làng mạc vùng quê Nam Định nhoi lên khỏi làn nước trắng lạnh như những quần đảo xanh một màu hoang vu.”

Trước hết, ta hãy tạm gác lại vấn đề nguyên tắc, đó là phải tuyệt đối tôn trọng văn bản của tác giả, không được thêm, bớt hay sửa chữa dù một dấu chấm, dấu phẩy. Ở đây ta chỉ thử xem việc sửa chữa ấy có làm tăng thêm giá trị của nguyên tác hay không. Ta thấy ngay phần được sửa chữa có đơn giản  và rút ngắn đi chút ít, tránh một cách khiên cưỡng vài ba từ Hán Việt [“Ở cuốn lịch năm ấy bìa vàng nhòe nét son dấu kìm ấn tòa Khâm Thiên Giám có niên hiệu Duy Tân thập niên, người ta thấy ... ”  được thay bằng “Ở cuốn lịch niên hiệu Duy Tân năm thứ mười bìa vàng nhoè nết son dấu kìm ấn toà Khâm Thiên Giám, thấy ...”, “... những giọt nước mắt triền miên than vãn của kỳ thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ.” được thay bằng “... những giọt than vãn triền miên của kỳ Ngâu còn kéo dài mãi đến bây giờ.”, “ ... một vùng nước mất hẳn bờ trên đó nhấp nhô những con đò đồng lí tí.” được thay bằng “... một vùng nước rộng nhấp nhô những con đò đồng li ti.”, “Ngọn sóng đồng hỗn loạn vỗ tung bùng vào mép những con đường đất thó nhuyển và những lũy tre già ướt át.”  được thay bằng “Sóng đồng hỗn loạn vỗ vào mép những con đường đất thó nhuyển và những bờ lũy tre già ướt át.”, “...như những quần đảo hoang vu.” được thay bằng “...như những quần đảo xanh một màu hoang vu.” ], nhưng rõ ràng kém xa nguyên văn. Những câu, những chữ được sửa, cũng như những thêm bớt đều biểu lộ ngay cái vụng về, khập khiểng, tùy tiện, lạc điệu. Muốn cho câu văn đơn giản hơn, muốn rút ngắn lối viết “dài dòng”, “khệnh khạng”, muốn thay thế một số từ Hán Việt, người ta đã vô tình chà đạp cái tinh tế, duyên dáng, thi vị rất độc đáo của văn tài Nguyễn Tuân.


Thế đối với thơ thì sao? Trong lãnh vực thơ, ai cũng phải công nhận rằng Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều là một tác phẩm “kỳ cổ’, văn chương điêu luyện, súc tích, nhiều điển cố, nhiều từ Hán Việt, nhiều gợi ý. Chẳng hạn để nói lên trò dâu biển, tính cách vô thường của cuộc đời, tác giả chỉ viết hai câu thơ ngắn:

Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ

Quán thu phong đứng rũ tà huy

Trí tưởng tượng của người đọc đã được đưa đi rất xa. Xưa ở đấy là một bến đò có con đò ngang qua lại đưa khách sang sông. Khách đến trễ, đò đã rời bến, thì đã có cái quán nhỏ bên sông để khách vào ngồi chờ cùng những người khác, chuyện trò, tán gẫu, ăn củ khoai luộc, uống bát chè tươi. Những sinh hoạt nho nhỏ trong cái quán cạnh bến đò xem ra cũng vui thú. Có khi nhờ những lần chờ đò trong quán nhỏ mà nên duyên vợ chồng. Bỗng chiếc cầu được bắc ngang sông nhìn dòng nước chảy, bến đò cũ ngồi trơ. Con đò phải đi kiếm ăn nơi khác. Quán bên sông hoang vắng, tàn tạ, rách nát, đứng rũ trong ánh chiều tà, mặc gió mùa thu luồn qua.

Hai câu thơ quả là tuyệt diệu, nhưng vẫn có người chê Nguyễn Gia Thiều đã dùng nhiều từ Hán Việt, và sửa lại như sau:

Cầu nước chảy ngồi trơ bến cũ

Quán gió thu đứng rũ bóng chiều  

Hai câu sửa nghe cũng gẫy gọn với cố gắng dịch sát những từ Hán Việt sang chữ Việt thuần túy. Nhưng không hàm súc bằng hai câu nguyên văn. Bùi Giáng đã rất tinh tế khi bảo rằng “hồng quần” trong câu “Phong lưu rất mực hồng quần” (Truyện Kiều )không chỉ có nghĩa rằng nàng Kiều thuộc gia đình phong lưu và mặc chiếc quần màu đỏ. Cũng thế, “cầu thệ thủy” không chỉ là “cầu nước chảy”, quán “thu phong” không chỉ là “quán gió thu”, nó còn có những gợi ý miên man. Hơn nữa, vào nửa sau cùa thế kỷ thứ 18 khi Cung Oán Ngâm Khúc ra đời, tức là vào thời kỳ văn học ta viết bằng chữ Hán chiếm ưu thế áp đảo, ảnh hưởng Hán học rất sâu đậm, thế mà Nguyễn Gia Thiều đã vận dụng chữ nôm như vậy thì quả thật đáng được khâm phục.  Những tiếng thuần nôm đưa vào như trong ví dụ trên nghe lạc lõng, ngơ ngác, làm giảm hẳn giá trị của nguyên tác.

Vậy phải chăng muốn cho câu văn hay, phải cầu kỳ, phức tạp như Nguyễn Tuân, muốn cho câu thơ hay phải viết một cách trau chuốt và dùng nhiều từ Hán Việt như Nguyễn Gia Thiều? Câu trả lời là không nhất thiết phải thế. Chẳng hạn bài thơ Thu Điếu rất nôm na, rất bình dị của Nguyễn Khuyến vẫn là một kiệt tác.  Nhan đề của bài thơ là hai từ Hán Việt, Thu Điếu, nhưng trong toàn thể 56 từ của bài thơ, chỉ có 5 từ gốc chữ Hán đã được Việt hóa  từ xa xưa (thu, thuyền, trúc, khách, động), 51 từ còn lại đều thuần Việt. Đây là một trường hợp rất hiếm hoi trong thi ca Việt Nam vào thời Hán Học còn được trọng dụng. Ngoài lối dùng từ rất nôm na, rất bình dị, tác giả lấy toàn những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc và rất quen thuộc của làng quê Việt Nam miền Bắc làm chất liệu, làm nguồn cảm  hứng. Ta còn nhớ ngay cả trong thời kỳ Thơ Mới Tiền Chiến, và ngay cả nhà thơ cách tân nhất của thời kỳ đó là Xuân Diệu cũng đã từng mơ đến bến Tầm Dương khi nghe tiếng đàn trong một đêm thu lạnh:

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời

Đàn ghê như nước lạnh trời ơi

Long lanh tiếng sỏi vang vang hận

Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người

Và bến Tầm Dương là một địa danh mà Bạch Cư Dị đời Đường đã nhắc đến trong bài Tỳ Bà Hành nổi tiếng:

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách

              Phong diệp địch hoa thu sắt sắt

(Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách

              Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu)

Cũng thế, sau cả Xuân Diệu, nhà thơ Bích Khê hẳn đã nghĩ đến hai câu thơ Tàu:

Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu

(Một lá ngô đồng rụng

Thế gian biết thu về)

khi viết hai câu thơ tuyệt vời:

Ô! Hay buồn vươn cây ngô đồng

Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông

Còn Thu Điếu của Nguyễn Khuyến? Trong Thu Điếu, tuyệt nhiên không có những hình ảnh ước lệ, vay mượn từ văn thơ cổ của Tàu.

Thế nhưng cái đơn giản, bình dị cùng cực của ngôn ngữ, của hình ảnh, vẫn chuyên chở những ý nghĩa và cảm xúc sâu xa. Bên dưới quang cảnh một ngày thu lạnh, lặng lẽ, êm đềm, trong sáng là những sâu lắng, những xôn xao, trăn trở, trầm tư. Tả cảnh câu cá chăng? Không. Chỉ trong câu thứ hai có nói đến Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo,  và câu cuối có nhắc đến Cá đâu đớp động dưới chân bèo, sáu câu còn lại tác giả đề cập đến chuyện khác. Ta cảm nhận ngay rằng câu cá chỉ là cái cớ để cụ già đắm chìm trong cái bao la của trời đất mà “ngộ” ra được cái lạnh lẽo, cô đơn, trống vắng, nhỏ nhoi, ngắn ngủi của kiếp người. Đã già yếu, “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được”, mải mê trong suy tưởng, bỗng giật mình thảng thốt vì tiếng cá đớp động.

Xin dẫn toàn bài:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo

Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới dưới chân bèo


Trở lại với vấn đề sử dụng chữ Hán, chữ Nôm, nếu ta thử “cắc cớ” thay vài ba từ Hán Việt vào bài Thu Điếu, chẳng hạn:

Thu trì lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc ngư châu bé tẻ teo ...

câu thơ sẽ lục cục như miếng cơm nhai trong miệng lẫn lộn vài hạt sạn. Tóm lại cái trong sáng, đơn giản trong Thu Điếu lại là ưu điểm lớn

Hai câu thơ tả người chinh phu trong Chinh Phụ Ngâm, “Áo chàng đỏ tựa ráng pha/Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in” cũng trong sáng, đơn giản so với hai câu trong Truyện Kiều tả Kim Trọng, “Tuyết in sắc ngựa câu giòn/Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”. Tôi lại nhớ đến một đoạn bình giảng của Giáo Sư Phạm Văn Diêu trong cuốn Việt Nam Văn Học Giảng Bình (in lần thứ ba, Nhà Xuất Bản Hoành Sơn, Sài Gòn - 1970) trong đó tác giả ca ngợi Nguyễn Du và chê bai Đoàn Thị Điểm:

“Nhằm thực hiện mục đích trên, văn từ thi pháp ở đây có tính cách thật là cao quý, tao nhã. Tả Kim Trọng trong buổi chiều xuân lửng lơ, Nguyễn Du viết:

Tuyết in sắc ngựa câu giòn,

Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.

Màu sắc chọn lọc, âm thanh tinh tế, cú pháp phóng túng, làm ta nhớ đến người chiến sĩ trong câu thơ Chinh Phụ:

Áo chàng đỏ tựa ráng pha

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.

mà không khỏi thấy vẻ mộc mạc, non tay trong nghệ thuật nhà nữ sĩ họ Đoàn, để nhận rõ rằng Tố –như quả là ‘già tay bút pháp’”.

Đọc đi đọc lại đoạn trích dẫn trên, tôi không khỏi bỡ ngỡ. Đành rằng Truyện Kiều là một kiệt tác, giá trị nghệ thuật của nó cao hơn Chinh Phụ Ngâm, nhưng nói thế không có nghĩa rằng mọi câu thơ trong Truyện Kiều đều hay hơn.  

Riêng hai câu của Truyện Kiều  nêu trên, theo tôi, có vài điểm cần xét lại. Trong câu lục, “Tuyết in sắc ngựa câu giòn”, chữ “giòn” thừa, cứng, nó chỉ có nhiệm vụ gieo vần cho chữ thứ sáu của câu bát, trong khi chính câu bát này, “Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời”, cũng có phần rườm rà. Tác giả muốn nói áo màu cỏ xanh, mà phải là cỏ xanh non như màu da trời chăng? Thì viết áo màu xanh da trời là đủ. Hơn nữa cấu trúc của nhóm chữ “nhuộm non da trời” hơi hàm hồ. Màu da trời xanh non, hay (núi) non có màu da trời?  Đó là vài chi tiết có thể bàn thêm, nhưng dù sao hai câu thơ ấy cũng vẽ ra được những nét đầu tiên sơ ngộ của một trang thanh niên phong lưu, cao sang.

   Hình ảnh người chiến sĩ trong Chinh Phụ Ngâm khác hẳn, và cũng được mô tả bằng lời thơ khác hẳn. Người chinh phụ tiễn đưa chồng ra mặt trận lòng buồn “dặc dặc” (Đưa chàng lòng dặc dặc buồn)trước bao nhiêu cảnh tượng diễn ra trước mắt. Đấy là những “bóng cờ tiếng trống xa xa”, những đoàn “Quân đưa chàng ruổi lên đường”, những “Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống”, những “Tiếng địch thổi đồng vọng”. Giữa tất cả những xôn xao, rộn ràng, cuồng nộ của âm thanh, của tiếng động, của di chuyển, của cát bụi, lẫn lộn và mờ mịt trong tâm trí của nàng, hình ảnh chói lọi nhất, rực rỡ nhất, gây ấn tượng nhất, cái hình ảnh sẽ không bao giờ phai mờ trong lòng người chinh phụ, đó là chiếc chiến y màu đỏ như ráng pha và con chiến mã màu trắng như tuyết in mà nàng được thấy lần cuối cùng trong đời. Vâng, biết đâu chàng sẽ không bao giờ trở về.   

Cảm xúc của người chinh phụ hẳn là trực tiếp, cụ thể, nhanh chóng, không qua tính toán, lý luận, không chải chuốt, tô điểm, không vướng mắc tu từ, đã được phô diễn bằng hai câu đơn giản như câu nói bình thường mà chứa đầy tình ý sâu xa, trung thực:  

Áo chàng đỏ tựa ráng pha   

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in


Nhưng nàng thơ khó tính lắm. Khi thì đòi đơn giản như Thu Điếu, lúc thì mong cầu kỳ như Cung Oán Ngâm. Trực tiếp, đơn sơ như hai câu tả người chinh phu trong Chinh Phụ Ngâm là hay, nhưng trong trường hợp khác, gián tiếp, bóng bảy lại đạt. Câu thơ cổ “Buồn trông con nhện dăng tơ” trong bài Vì Nhớ Mà Buồn (Đêm qua ra đứng bờ ao/Trông cá cá lặn trông sao sao mờ/Buồn trông con nhện dăng tơ/Nhện ơi nhện hới nhện chờ mối ai...) nghe thật chân phương, hiền từ, đã được Huy Cận viết lại một cách tài tình, tuy vẫn dùng chừng ấy sáu từ, cũng “buồn”, cũng “con nhện”, cũng “dăng” tơ trong bài Ngậm Ngùi. Chỉ thay đổi vài chữ, chỉ vận dụng một cấu trúc khác, mà câu thơ trở nên linh động, mạnh mẽ và mới mẻ. Hơn nữa, cái buồn da diết hơn, dồn dập hơn, đan quyện vào nhau qua hình ảnh “con nhện dăng mau” : Sợi buồn con nhện dăng mau (Nắng chia nửa bãi chiều rồi/ Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu/Sợi buồn con nhện dăng mau/ Em ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây – Ngậm Ngùi).

Hơn nữa, nếu câu “Buồn trông con nhện dăng tơ” gần gũi với lối nói bình thường, với văn xuôi, thì “Sợi buồn con nhện dăng mau” lại hoàn toàn là một câu thơ lung linh, bóng bảy dù đứng riêng rẻ một mình hay nằm cạnh những câu thơ khác của bài thơ.

Cho nên, đơn giản hay cầu kỳ, cụ thể hay trừu tượng, chân phương hay bóng bảy, vân vân, đấy không phải là vấn đề.

Thế nhưng lối nói bình thường, đơn giản lại được hoan nghênh trong lối thơ Tân Hình Thức. Trong vòng 15 năm nay loại thơ Tân Hình Thức (New Formalism) ra đời ở California chủ tương đưa vào thơ sự đơn giản, trung thực của đời thường, giảm thiểu tu từ bóng bảy, loại bỏ những ẩn ý, những thông điệp cao siêu, sử dụng lối vắt dòng và lặp lại để thay thế vần điệu cũ, thêm tính truyện v.v... Một số bài thơ Tân Hình Thức  có giá trị ra đời. Dưới đây là bài thơ “Khúc Hai Hai” của Nguyễn Thị Ngọc Lan, một bài thơ hội đủ những đặc trưng của loại thơ ấy:

Mẹ cõng nỗi buồn của con, qua những

chặng đường, hai mươi năm. Đèn đỏ mẹ

cùng con dừng lại, cùng hát cùng cười,

đèn xanh mẹ tha con đi như mèo


mẹ tha con. Vụng về mẹ làm con

đau, bướng bỉnh con làm mẹ đau. Hai

mươi năm, chỉ có con làm nhân chứng

cho niềm đau của mẹ, hai mươi năm,


chỉ có mẹ đeo riết niềm đau của

con. Rồi một ngày, con đi vào đời

một người đàn ông bạc ác, và nỗi

buồn của mẹ nhân đôi, vì có vài


người đàn ông bạc ác trôi qua đời mẹ.

Cứ thế, mẹ cõng niềm đau của con

nhưng niềm đau của mẹ không ai biết

đến. Và chiều nay, chiều nay, mưa rơi


mưa rơi, có bao nhiêu người đàn bà

khóc một mình. Có bà ngoại, có mẹ,

có con ...


Loại Thơ Tân Hình Thức tại Mỹ, Canada đã đạt những thành tựu lớn lao, tuy nhiên khi được du nhập vào làng thơ Việt Nam, sức lôi cuốn của nó bị giảm đi rất nhiều. Tại sao thế? Có lẽ vì tiếng độc âm của ta không thích ứng với việc tạo dựng vần điệu, nhịp điệu, nghệ thuật cú pháp thay thế nghệ thuật tu từ như trong loại thơ Tân Hình Thức tiếng Anh.

Ở Úc, thơ Hậu Hiện Đại, Lưu vong, “Lai Ghép Xuyên Quốc Gia”, có vẻ phát triển khả quan. Thử đọc hai đoạn thơ trong bài trong bài Cuối năm Ợ Lên Nhai Lại của nhà thơ trẻ Tú Trinh:

Cuối Năm Ợ Lên Nhai Lại

như thể là chỉ còn một khung cửa gỗ mở ra

và hiên mưa và bầu trời đêm quên lấp lánh

và tiếng dòng sông chảy sau rừng

và tiếng thở nhẹ nhàng của người khách lạ

đã quên tên họ mình

đã quên những gì đã qua

đã quên những gì chưa tới

[đi lạc trong hiện thực như thực của mưa]


như thể là những người Nam Á di cư từ ngàn xưa

đem đến vùng đất mới những mảnh vụn quê cũ

mấy câu thơ rơi rớt dọc đường

vài hạt giống nảy mầm ủ rũ

nằm chờ sự ghép lai

[kính thưa các thể loại] ...


Thi ca  việt Nam biến chuyển nhiều từ trước đến giờ. Có người xem những dòng thơ đi trước họp lại làm thành những bệ phóng nhờ đó thơ hôm nay cùng với những thử nghiệm đầy gian nan sẽ có ngày đạt được thành quả rực rỡ hơn.  Nhưng cũng có người cho rằng thơ truyền thống là những gông cùm cần phải đập tan thì thơ của ta mới có thể vươn lên ngang tầm thế giới. Đó là chọn lựa của những nhà phê bình thơ, những người làm thơ. Riêng giới độc giả thì tha hồ tìm kiếm cái hay, cái đẹp mà thưởng ngoạn.


Mùa thu đang về. Nắng vàng thêm một chút, gió chớm se lạnh, ngày trở dậy muộn, chiều mau tới. Bài viết này nói về thơ nhưng khởi đầu bằng vài đoạn văn xuôi của Nguyễn Tuân có nhắc đến “ngày lập thu qua đã lâu rồi”. Vậy cũng nên kết thúc bằng vài câu văn xuôi của Nhất Linh mở đầu cho cuốn Đôi Bạn:

“-Trời muốn trở rét ...

Nói xong và nghe tiếng mình nói, Trúc nhớ lại rằng câu nói ấy chàng đã thốt ra nhiều lần, năm nào cũng vậy. Sự rung động êm ái và hiu hắt buồn trước cơn gió lạnh đầu tiên khiến vẻ mặt Trúc trở nên dịu dàng và thoáng trong một giây chàng sống lại hết cả những ngày mới trở rét trong đời...

Tuy đã cuối tháng chín nhưng đối với Trúc cứ lúc nào trời đổi gió heo may mới thực là lúc bắt đầu mùa thu.”




.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.