Hôm nay,  

Niềm Kỳ Vọng Của Ba Tôi

16/06/201904:56:00(Xem: 6195)

Tùy bút

                                       NIỀM KỲ VỌNG CỦA BA TÔI

Thành kính tưởng niệm Ba tôi nhân Father’s Day

ĐIỆP MỸ LINH

Trong khi “lang thang” trên internet, thấy câu hô hào, kêu gọi của thủ tướng cộng sản Việt Nam (c.s.V.N.) Nguyễn Xuân Phúc: “Phải đồng cam cộng khổ với chính phủ để trả nợ công?” tự dưng tôi nghĩ đến Ba tôi – Cụ Điệp Linh Nguyễn Văn Ngữ – người đã từ bỏ cuộc sống an nhàn, đầy tiện nghi của một công chức trong “vùng bị chiếm” thanh bình, theo tiếng gọi thanh niên, ra “vùng giải phóng” để chống Tây.

Thời điểm đó, Má tôi đang mang thai đứa con thứ hai. Bà Nội của tôi tu tại gia, không để ý bất cứ việc gì của thế tục. Bà ngoại của tôi khóc hết nước mắt, không cho Má tôi theo Ba tôi; nhưng Má tôi vẫn vừa theo Ba tôi vừa khóc!

Đến “vùng giải phóng” được một thời gian, Má tôi sinh bé trai. Ba tôi đặt tên em là Nguyễn Phiêu Linh. Tôi chưa hiểu biết cho nên chẳng thắc mắc gì về nghĩa của hai chữ “Phiêu Linh”!

Ba tôi làm việc ở đâu, tôi cũng không biết; chỉ thấy mỗi khi Ba tôi về nhà với “ruột tượng” gạo thì tôi vui lắm; vì có Ba ở nhà tôi được nhõng nhẽo và được ăn cơm không trộn khoai mì. Thời gian đó chưa có bo bo. Sau này tôi mới biết, mỗi tháng chỉ một mình Ba tôi được lãnh 08 ký – xin lập lại, tám ký – gạo; ngoài ra không có bất cứ nguồn cung cấp nào khác cho Má và chị em tôi. Má tôi phải bán từ từ số nữ trang mà Má tôi giấu kỷ trong người để nuôi chồng con. Thế mà nay Việt Minh (tiền thân của đảng c.s.V.N.) kêu gọi, ép buộc dân chúng phải tận lực yểm trợ “tuần lễ bạc”; mai đảng c.s.V.N. lại bắt người dân phải dốc toàn lực để thực hiện “tuần lễ vàng”; vì vậy, số nữ trang Má tôi giấu trong người cứ từ từ “biến” dần, “biến” dần theo các cuộc quyên góp quy mô của đảng c.s.V.N..

Đôi khi tôi thấy Má tôi khóc và than nho nhỏ:

-Đi mần chi mà khổ như ri, Trời!

Hiện nay, Nguyễn Phiêu Linh không còn nữa và tôi cũng không còn trẻ để nhớ rõ về khoảng thời gian đói khổ của gia đình trong “vùng giải phóng”; nhưng không hiểu tại sao tôi không thể quên được hình dáng của Ba tôi – sau mỗi lần bị kiểm thảo tư tưởng – ngồi trên chiếc “đòn ngồi” bằng gỗ, hai ngón tay của bàn tay phải kẹp điếu thuốc rê được vấn bằng lá chuối non phơi cho heo héo một tý.

Chiếc “đòn ngồi” gồm hai mảnh gỗ nhỏ, bằng nhau, được đặt song, phía trên là một miếng gỗ hơi lớn, cỡ hai bàn tay, rồi dùng đinh đóng miếng gỗ lớn vào hai mảnh gỗ nhỏ. “Đòn ngồi” chỉ thấy ở “vùng giải phóng!”

Nhiều khi Ba tôi cứ ngồi trên “đòn ngồi”, hai tay ôm hai đầu gối, môi phì phà điếu thuốc rê, mắt nhìn vào cõi không gian u ẩn nào đó; đôi khi Ba tôi ôm Mandoline, ngồi trên chiếc “đòn ngồi”, chân duỗi thằng ra và đàn những tình khúc quen thuộc của Pháp mà tôi thường nghe khi còn trong “vùng bị chiếm”.

Khi nào cũng vậy, nghe Ba tôi đàn nhạc Pháp, Má tôi cũng nhắc:

-Đàn mấy bài nớ rủi bị kiểm thảo thì khổ thân đó!

-Tụi nó “dốt đặc cán mai” làm sao biết được nhạc nào của Tây, nhạc nào của ta mà em lo!

Má tôi im lặng. Tôi không biết, không nhớ, sau đó, Má tôi còn lo sợ mỗi khi Ba tôi đàn nhạc Pháp hay không; nhưng khi Ba tôi tập cho tôi hát tác phẩm đầu tiên của Ông – Người Tản Cư – tôi thấy Má tôi có vẻ rất lo lắng. Nhạc phẩm Người Tản Cư cung “Ré” trưởng, slow, được Ba tôi viết lời ca như thế này – tôi chỉ nhớ được những dòng sau đây: “Nắng vàng vừa tắt đi đêm âm u trong rừng, hoàng hôn ôm hoang vu. Đây sương lam mờ, mờ trắng trên đồi cao. Trăng non bâng khuâng chiếu ánh nhạt xanh, rừng đắm u hoài. Đêm về người tản cư đang mòn trông sống trong tình mến yêu nồng nàn gia đình. Chinh phu xa vời trông cố hương người dừng cho nhắn đôi lời…”

Tôi chỉ là đứa bé con thích ca hát, vừa được Ba tôi tập hát tình khúc của chính Ông – tuy chưa hiểu được ý nghĩa lời ca – tôi cũng thích lắm! Suốt ngày ngồi chơi với Phiêu Linh cạnh hầm tròn, để dễ nhảy xuống hầm khi máy bay đến, tôi cứ “nghêu ngao” bài đó hoài.

Tôi không hiểu vì tôi cứ “nghêu ngao” bài Người Tản Cư hoài mà “thiên hạ” nghe rồi báo cáo hay là vì Má tôi bắt đầu dạy tôi học tiếng Pháp mà Ba tôi bị kiểm thảo tư tưởng liên miên. Tinh thần của Ba tôi rất căn thẳng. Cuối cùng Ba tôi dặn Má tôi, khi nào dạy tôi học tiếng Tây, Má tôi phải cẩn thận, để Ba tôi khỏi bị họ đày đọa tinh thần.

Tuy còn là bé con, tôi vẫn thắc mắc và tự hỏi: Tại sao mỗi tối cán bộ cao cấp đến nhà Ba Má tôi, bảo tôi hoặc Phiêu Linh đóng cửa trước lại để Ba tôi dạy cán bộ học Pháp văn thì Ba tôi không bị kiểm thảo tư tưởng mà khi Má tôi dạy tôi học tiếng Tây thì Ba tôi lại bị “cấp trên” khiển trách nặng nề?

Một hôm tôi nghe Má tôi hỏi Ba tôi:

-Bài Người Tản Cư có chi mô mà tụi hắn ghép anh vô tội việt gian, phản động?

-Tụi nó kết tội anh vì câu: “Đêm về người tản cư đang mòn trông sống trong tình mến yêu nồng nàn gia đình”.

-Anh theo tụi hắn ra đây, chừ mình “tứ cố vô thân”, mình mong tình thương yêu gia đình thì có chi quá đáng mà tụi hắn bắt tội anh?

-Tụi nó nói anh ra đây sống trong tình đồng đội, trong sự quan tâm rất tích cực của đảng, trong tình thương bao la của “bác” Hồ vĩ đại. Anh phải “giác ngộ”, “tuân thủ” theo chủ nghĩa tam vô: Vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo thì anh mới có thể trở thành một đảng viên nồng cốt.

-Anh vô đảng cộng sản để làm cái chi?

-Đâu có. Tụi nó thúc hối hoài, nhưng anh – cũng như đa số bạn anh từ miền Nam thoát ly ra đây – cứ hẹn dần; vì tụi anh đã nhận ra được bề trái bỉ ổi của Việt Minh rồi!

Thời gian này Ba tôi sáng tác nhạc phẩm thứ hai, tựa là Bến Thu, cung “Ré” trưởng, slow. Mở bài là hai câu thơ:

Ai mòn mõi bên chân trời kia nhỉ!
Thấy Thu về tựa cửa mong con!


Và lời ca như thế này: “Nắng mênh mang êm đềm tràn dòng sông vắng. Tiếng Thu rơi nhẹ nhàng cùng áng khói lam. Chiều đến đìu hiu mang cả niềm thương nhớ. Sương mờ thoáng rơi trên đồi Thu trầm mơ.,Ly hương, kiếp tha phương nhuộm vết tang bồng. Chiều nay tôi thấy thoáng bóng mờ mờ trắng, đi ngoài xa xa. Lòng bâng khuâng tôi nhớ đến người Mẹ già miền Nam, ôi xót xa! Tủi thân người lữ thứ ôm mối sầu ly hương. Sống không một tình thương, không gia đình, không quê quán. Mòn mỏi dừng chân sau những ngày mưa gió. Phong trần xóa tan chuỗi ngày xanh đời tôi. Nghe chăng, tiếng thiết tha buồn nhớ quê nhà!”

 

Ba tôi lại bị kiểm thảo tư tưởng từng đêm vì câu: “Phong trần xóa tan chuỗi ngày xanh đời tôi!”

 

Sau thời gian dài bị kiểm thảo tư tưởng nặng nề mà Ba tôi cũng vẫn không thể tách rời được sự rung động nhạy cảm của một tâm hồn ướt lệ, Ba tôi bị “điều” về làng Sơn Tịnh, Quảng Ngãi.

 

Khi đến Sơn Tịnh, Ba tôi gặp lại Bác Nguyễn Hữu Dưỡng – người thoát ly ra “vùng giải phóng” cùng thời với Ba tôi. Nhờ Bác Dưỡng đề bạc với cấp trên, Ba tôi nhận chức Trưởng Ban Văn Nghệ Liên Khu V, thay thế người tiền nhiệm không biết đọc “notes” nhạc.

 

Sau khi trốn về Nam, Bác Dưỡng là một giáo sư toán nổi tiếng tại các trường trung học ở Nha Trang và Ba tôi làm việc tại Khu Công Chánh, kiêm Trưởng Ban Văn Nghệ Khu Công Chánh miền Nam Trung phần và Ba tôi cũng là sáng lập viên của Ban Ca Nhạc Bình Minh Đài Phát Thanh Nha Trang.

 

Về sau, Ba tôi thi đỗ ngạch Hành Chánh Trung Ương và được thuyên chuyển vào Cam Ranh, nhận chức Trưởng Ty Nội An Thị Xã Cam Ranh kiêm giáo sư Pháp văn các lớp đệ nhị cấp – lớp đệ tam và đê nhị trường trung học công lập Cam-Ranh  – vào cuối thập niên 60 cho đến 1975.

 

Cuộc đời của Ba tôi gắn liền với âm nhạc, kịch nghệ và giáo dục, thế thì tại sao, sau khi cưỡng chiếm miền Nam, đảng và người c.s.V.N kết tội Ba tôi là “Ngụy” quyền rồi nhốt Ba tôi trong nhà tù Nghĩa Phú cùng với Nguyễn Phiêu Linh – bị động viên vào khóa 6/68 trường sĩ quan Bộ Binh Thủ Đức?

 

Bị người đồng chủng – c.s.V.N. – cướp phần đất mà người miền Nam chúng tôi đã bảo vệ, vun bồi, chúng tôi vươn lên từ tuyệt vọng! Mảnh đất này – U.S.A. – và người dân khác chủng tộc đã dang tay ân cần đón nhận chúng tôi trong mọi địa hạc, mọi lãnh vực; trong khi đó, tại Việt Nam, người c.s.V.N. lại nhốt tù người thân của chúng tôi và không cho con, cháu của chúng tôi theo học đại học.

 

Sau khi chúng tôi tìm được sự sống an lành, chúng tôi đã chắc mót từng đồng đô-la gửi về Việt Nam. Nếu không có những đồng đô la của chúng tôi gửi về, liệu người dân Việt Nam trong nước có thể qua được thời bao cấp hay không? Thế mà chúng tôi lại bị người c.s.V.N. mạ lỵ là chúng tôi chạy theo “liếm” gót giày của đế quốc Mỹ để ăn bơ thừa, sữa cặn!

 

Chúng tôi có ăn bơ thừa, sữa cặn hay không, chúng tôi tự biết. Nhưng, từ hành động và lời nói thiếu giáo dục của người c.s.V.N. sau năm 1975, tôi nhớ lại thái độ của các cán bộ ngày xưa đến nhà Ba Má tôi học Pháp văn do Ba tôi dạy.

 

Tôi nhận ra rằng, người c.s.V.N. chỉ thích “chui” vào cái vỏ bọc – không phải của họ – để che giấu sự yếu kém, sự thiếu tự tin của họ chứ người c.s.V.N. không muốn và không thể sống thật với bản chất của họ và những gì họ thật sự có.

 

Nhìn vào hệ quả hiện tại của đất nước Việt Nam sau gần nửa thế kỷ bị đảng c.s.V.N. thống trị và đời sống của người Việt tỵ nạn c.s.V.N. tại hải ngoại, người c.s.V.N. thấy gì? Có phải người c.s.V.N. thấy rõ sự thành công vượt bực của thế hệ tỵ nạn thứ II hay không? Và cũng chính sự thành công vượt bực của thế hệ tỵ nạn thứ II làm cho đảng và người c.s.V.N….thèm lắm, đúng không? Vì thèm quá cho nên c.s.V.N. đưa ra chiêu bài “hòa hợp hòa giải” dân tộc; chiêu dụ chuyên viên và nhân tài từ “nước ngoài” về Việt Nam giúp Quê Hương phát triễn.

Làm thế nào để “hòa hợp hòa giải” với những người đã nhốt tù Cha, chồng, anh, em của chúng tôi rồi đuổi Mẹ và chị em gái của chúng tôi đi kính tế mới để tịch thu nhà, tài sản và đất đai của Cha Mẹ chúng tôi?

Tôi hiểu, sau năm 1975, không phải chỉ có Ba Má tôi bị c.s.V.N. tịch thu tài sản mà hầu như 99.9% tài sản của người miền Nam, của chùa, của nhà thờ đều bị c.s.V.N. tịch thu.

Thế thì, với số tài sản người c.s.V.N. vơ vét của người dân, kể từ năm 1975 đến nay; tài sản tịch thu của chùa, của nhà thờ cùng với tiền người c.s.V.N. bán hoặc cho Trung cộng thuê đất xây hãng xưởng và 500 triệu đô la do hãng Formosa bồi thường cho nạn nhân của chất độc do Formasa thải ra người c.s.V.N. đã dùng vào mục đích gì mà nay thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lại kêu gọi người dân “Phải đồng cam cộng khổ với chính phủ để trả nợ công”?

 

Lời kêu gọi vô trách nhiệm của thủ tướng c.s.V.N. Nguyễn Xuân Phúc mà chỉ có mấy phản ứng trên facebook thì… đáng buồn thật!

Bao nhiêu biến động đã xảy ra trên Quê Hương Việt Nam và nay thêm lời kêu gọi phi lý của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mà Người Trẻ Việt Nam cũng vẫn an nhiên, tự tại để người c.s.V.N. “ru ngủ” bằng những lễ hội “hoành tráng” làm cho tôi nhớ đến đoạn điệp khúc trong bài hát Khánh Hòa Niềm Thương, do Ba tôi sáng tác “ngầm” trong trại tù Nghĩa Phú. Năm 1990, sau khi Ba tôi sang Mỹ, Ba tôi mới chép lại cho tôi.

Bản nhạc được viết với âm giai “Do” trưởng, nhịp 2/4. Sau đây là lời ca của đoạn điệp khúc: “…Bao tiếng thét oai hùng đoàn xung phong tiến về dành Quê Hương. Đất Khánh Hòa nhìn năm niềm thân yêu giờ đây vang tiếng than! Người lìa Quê Hương, sông núi, đọa đày thân sống xa xôi. Quê Hương ơi! Giờ đây thấu chăng Mẹ hiền thổn thức? Quê Hương ơi! Giờ đây thấu chăng tiếng khóc của đàn con!...”

Năm 1990, lần đầu tiên đàn và hát ca khúc này, tôi âm thầm quẹt nước mắt; vì tôi hiểu được niềm kỳ vọng của Ba tôi.

Bây giờ, sắp đến đoạn kết của tùy bút này, tôi cũng không thể nén ngậm ngùi; vì tôi không thể biết được người Việt trong nước và người Việt ở hải ngoại còn được bao nhiêu người có cùng niềm kỳ vọng với Ba tôi!


ĐIỆP MỸ LINH
https://www.diepmylinh.com/ 

 



 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.