Hôm nay,  

Cảm Nghĩ Của Một Người Cựu Tị Nạn

28/12/201917:19:00(Xem: 6442)

Theo tôi hiểu,tôi lớn lên ở Việt Nam trong một gia đình khác với nhiều người. Tôi nhớ các mùa nghỉ hè bận rộn với các sinh hoạt cộng đồng, nhất là từ năm 1972 cho đến 1974. Mẹ tôi mang hết mấy đứa con tới các trại tị nạn ở Củ Chi và An Lộc. Cả nhà bỏ hết ngày hôm trước để gói rất nhiều bao gạo và phân loại quần áo cũ đã quyên được. Ngày chủ nhật lúc mặt trời chưa mọc, mười mấy người chúng tôi dồn vào một chiếc xe van hiệu Ford, chạy sau hai chiếc vận tải lớn về miền quê để trợ giúp người tị nạn. Chẳng có lần nào chúng tôi không nghe tiếng đại bác và súng từ phía xa khi xe lăn bánh trên mặt đường mấp mô. Vào cuối ngày, ông tôi đứng chờ trước cổng nhà khi chúng tôi trở về an toàn. Các chủ nhật khác, chúng tôi lên Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung hay ghé một cô nhi viện ở Biên Hòa. Là con gái, tôi chứng kiến ba mẹ tôi nhiều đêm mất ngủ vì mong anh tôi trở về từ nơi hành quân. Là người Việt, tôi chứng kiến nhiều dòng nước mắt vì chết chóc hay khổ đau. Tôi khóc trong lòng cho những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị mất nhà cửa, cách ly khỏi gia đình và ám ảnh bởi chiến tranh. Là đứa trẻ con, tôi lúc nào cũng biết mình được thương yêu. Tôi đủ may mắn để sống trong sự an toàn ở Thủ Đô. Tôi không thể nào tưởng tượng được sẽ có ngày chính Việt Nam Cộng Hòa cũng sụp đổ và biến tôi thành một người tị nạn.

Gia đình tôi đã sống qua ba năm dưới chế độ cộng sản, chịu đựng chiến dịch đánh tư sản, trại cải tạo, tù tội, đổi tiền tức là một hình thức cướp tiền của dân, tem phiếu thực phẩm và nhiên liệu, và cuộc động viên để bắt lính đi đánh bên Cam Bốt và ở biên giới Trung Quốc.

Mẹ tôi mang hết mấy đứa con vượt biên năm 1978, để ba tôi và ông bà ở lại. Chúng tôi đến được Nam Dương rồi từ đó xin định cư ở Mỹ. Tôi mong rằng không ai nữa phải trải qua kinh nghiệm vượt biên mười bốn ngày trên biển và sáu tháng trong trại tị nạn như của chúng tôi. Lần đầu trong cuộc đời đứa trẻ 14 tuổi, tôi sống với hàng ngàn người lạ trong một nhà kho không có điện nước cũng như sự riêng tư và khan hiếm thức ăn. Niềm hy vọng là nhiên liệu duy nhất giúp chúng tôi tiếp tục sống.

10 năm đầu sống ở Mỹ là quãng thời gian không dễ dàng gì với gia đình tôi. Chúng tôi vật lộn với những trở ngại về văn hóa và kinh tế của những người tị nạn trong một xứ sở xa lạ. Lúc còn ở tuổi vị thành niên, tôi thường tự hỏi tại sao cuộc sống có nhiều đau khổ đến thế? Rồi tôi chấp nhận đó là số phận của minh. Các anh chị tôi kiếm được việc trong các hãng xưởng, ngân hàng và nhà hàng lúc mấy đứa nhỏ hơn trong gia đình còn đi học. Tôi là một trong những thành viên may mắn được học hành trong xã hội Mỹ. Chuyên ngành Á Mỹ Nghiên Cứu Học và Xã Hội Học giúp tôi hiểu sâu sắc hơn về cái lịch sử và sự phấn đấu của người di dân và các nhóm thiểu số ở xứ sở này.

Tôi hiểu được rằng người da màu, đàn ông lẫn đàn bà, đã không được quyền bầu cử cho đến cuối thập niên 1950. Nhờ sự đấu tranh của các anh chị em da màu, như những người đã tình nguyện gia nhập quân đội Mỹ, hy sinh cả mạng sống trong Thế Chiến Thứ Hai để chứng minh lòng trung thành với nước Mỹ và đòi hỏi công lý xã hội, người Mỹ gốc Việt như tôi đến xứ sở này vào thập niên 1970 đã có thể ngồi phía trước xe búyt, đã có cơ hội tìm những công việc cao cấp và đã có quyền đi bầu. Hiểu về những trải nghiệm này thay đổi hoàn toàn cách nhìn của tôi về nước Mỹ.

Sau khi tốt nghiệp, trong 5 năm tôi đã làm cố vấn về di dân tại Oakland cho một tổ chức với thành tích giúp đỡ người tị nạn Do Thái, Ba Lan và Nga trong các thập niên 1930 và 1940, tị nạn từ Cuba trong thập niên 1960 và từ Đông Nam Á trong thập niên 1970. Tôi trở thành một giáo sư và sau đó, nắm một vai trò quản trị trong hệ thống đại học cộng đồng của California trong 30 năm qua. Ở những chức vụ này, tôi gặp hàng ngày những người Mỹ với gốc tích đa dạng từ Đông Âu, Đông Nam Á, Trung Á, Châu Mỹ La-tinh và Châu Phi. Tôi đã nghe nhiều câu chuyện buồn của người tị nạn, giống như nhìn vào chính hình bóng của mình trong gương mỗi ngày. Các câu chuyện của họ giúp tôi bền bỉ hơn và cung cấp cho tôi sự hiểu biết về khung cảnh chính trị của thế giới.

Khi nào mẹ tôi kể về chuyến vượt biển hãi hùng từ Sài Gòn đến Nam Dương, các người bạn gia đình hay góp ‎ý, chẳng hạn như “Gia đình có phước đức lắm đó!  Chị làm phước quá nhiều nên được ơn trên phù hộ bình an đến nơi!” Mẹ tôi thuộc thế hệ chấp nhận khái niệm số phận, trong khi tôi hay hỏi tại sao? Nếu tôi chấp nhận rằng chuyến đi an toàn của chúng tôi là do luật nhân quả, điều đó cũng có nghĩa là cả triệu người bỏ mạng đã không sống một cuộc đời lương thiện?

Khi nhìn các hình ảnh của các con người khốn khổ mong đợi được tị nạn ở biên giới Mỹ-Mễ, tôi tự hỏi điều gì làm cho gia đình chúng tôi chính đáng hơn họ trong việc xin định cư trong khi chúng tôi cũng chẳng khác gì. Tôi tự hỏi tại sao xứ sở này có quyền cung cấp các loại vũ khí giết người và cùng lúc từ chối nhận các người tị nạn do chiến tranh. Tôi đặt câu hỏi vì sao học phí tại hệ thống Đại Học California đã tăng 1.500 lần trong 30 năm qua. Tôi không hiểu tại sao một công chức như tôi xứng đáng được hưởng quy chế bảo hiểm y tế tốt hơn những người làm thu ngân toàn thời gian tại nhà băng hay làm việc văn phòng.

Gần đây, tôi đã viếng thăm nhiều công ty ‘high-tech’ và thấy nhân viên của họ với thu nhập cao được hưởng các bữa ăn sáng, trưa và tối miễn phí cũng như phụ cấp về di chuyển trong khi những người với mức lương tối thiểu phải bỏ ra từ 20 đến 30 phần trăm thu nhập của họ cho những thứ này tuy không mua nổi bảo hiểm y tế? Tôi biết những trường hợp sinh viên ở đại học của tôi phải sống trong xe hơi, hay mấp mé trở thành vô gia cư. Xin đừng hiểu sai điều tôi nói, tôi cảm thấy may mắn có được nhà cửa, một việc làm vững vàng và nhiều cơ hội người khác mở ra cho tôi. Tuy nhiên, các cơ hội đó lẽ ra cũng phải ở trong tầm tay của những người di dân mới hoặc sẽ đến.

Nước Mỹ dư khả năng để chia sẻ một phần của tài nguyên thiên nhiên và nhân lực với thế giới. Là một người Mỹ Gốc Việt, tôi muốn có một chính quyền đặt các vấn đề nhân quyền, săn sóc sức khỏe và giáo dục ở mức ưu tiên vì chúng ta là một trong những quốc gia giàu có nhất trên thế giới. Tôi muốn có một nhà lãnh đạo cổ xúy cho hòa bình, và dang tay đón nhận người di dân và tị nạn đến xứ sở đẹp đẽ tự do này. Tôi ủng hộ các chính trị gia đại diện cho các giá trị của tôi và sẽ bầu cho các ứng cử viên tin vào sự công bằng, bình đẳng, công l‎ý xã hội và bảo vệ Trái Đất cho mọi người!

Minh Hoa Ta giữ chức khoa trưởng tại Đại Học Cộng Đồng San Jose và là thành viên của PIVOT (Hội Người Mỹ Gốc Việt Cấp Tiến)

Thang Do, thành viên Hội Đồng Quản Trị của PIVOT (Hội Người Mỹ Gốc Việt Cấp Tiến) chuyển ngữ bài viết gốc bằng tiếng Anh

Reflections of a Former Refugee

As far as I can tell, I grew up in a very unconventional family in Vietnam.  I recall my summer vacations often filled with community activities.  My most memorable summer memories were from 1972 to 1974. Mother took all her children to the refugee camps near Cu Chi and An Loc. We spent the day before packaging bags and bags of rice, collecting used and new clothes and sorting them by groups.  Before sunrise on Sunday, twelve to fifteen of us, young and old, packed ourselves into a Ford van, which navigated behind two big trucks toward the country side to assist war refugees. Without failing on each trip, we heard the sound of artillery (pháo kích) and gunfire from the distance as we drove on bumpy country roads. Later, Grandfather often greeted us at the entrance to our house upon our safe return.  On other Sundays, we went to Quang Trung Military Training Center or visited an orphanage in Biên Hòa.  As a daughter, I witnessed my parents spending sleepless nights longing for my brother to come back safely from his military mission. As a young Vietnamese, I witnessed tears brought about by death or suffering. My heart cried for the men, women and children who endured displacement, separation, and torment of war. As a child, I always knew I was loved. I was fortunate enough to live and be protected in the Capital City.  I could never have imagined the end of the Republic of South Vietnam in 1975 that turned me into a refugee.  

Suffering under the communist regime for almost three years, my family members and I were exposed to the government’s policy of confiscating properties from capitalists (đánh tư sản), reeducation camp (trại cải tạo), imprisonment, change of currency which was a crafty way of robbing people of their money, rationing of food and energy, and the draft to enlist soldiers to fight the conflicts in Cambodia and on the Chinese border. 

My Mother took all her children to escape by boat from Vietnam in 1978, leaving behind my loving Father and Grandparents . We arrived in Indonesia and later sought asylum in the United States.  The fourteen-day boat journey and six-month stint in the refugee camps were experiences I wish others never would have to go through. For the first time in my fourteen years of life, I lived with thousand strangers in a warehouse with no privacy or running water, and without adequate food or electricity. Hope was the only impetus keeping us move forward. 

Life for my family during the first 10 years in the United States was not at all a piece of cake. We struggled through culture and economic hardships as refugees in a foreign land. As a teenager, I often questioned god why there was so much misery? I learned to accept that it was my fate (số phận).  My elder siblings found jobs in manufacturing, banking and restaurant while the younger ones were enrolled in school. I was one of the lucky members of my family to benefit from American education. Majoring in Asian American studies and Social Welfare at CAL deepened my knowledge on the history and struggle of immigrants and minority groups in this country. 

I learned that men and women of color in this country did not have the complete right to vote until the late 1950’s. Thanks to the struggles of many brothers and sisters of color who volunteered to serve in the US military, sacrificed their lives during WWII to prove their loyalty to America and fought for social justice, Vietnamese American like me coming to this country in the 1970’s were able to sit in front of the bus, have accessed to high skill jobs  and to vote. Learning about their experiences transformed my view of America.

Upon graduation, I worked in Oakland for five years as an immigration counselor in an organization that had a long history of assisting Jewish, Polish, Russian refugees in the 1930s and 1940’s, Cuban refugees in the 1960s and the Southeast Asian refugees in the 1970s. I became a faculty member and later, as an administrator for the last 30 years in the California Community College system. In these positions, I encountered daily diverse Americans whose roots traced back to Eastern Europe, Southeast Asia, Central Asia, Latin America and Africa.  I listened to many sad migrant and refugee stories. It has been like seeing myself in the mirror every day. Their stories have contributed to my resiliency and provided me a better understanding of the political landscape of the world. 

Whenever Mother shared the horrific tale of our boat journey from Saigon to Indonesia, her friends often responded with comments like “Gia đình có phước đức lắm đó!  Chị làm phước quá nhiều nên được ơn trên phù hộ bình an đến nơi!” (your family is very lucky! You did many good deeds, so the ‘higher-up’ protected you until safe arrival!) My Mother was from the generation that accepts the concept of fate and karma, while I tended to ask why?  If I accepted that our safe journey had to do with Karma, am I then to say that the millions who lost their lives did not do good deeds?

Looking at the images of individuals seeking asylum at the Mexican - US border, I question what made my family more legitimate asylum seekers when we were no different from them? I wonder why it is Ok for this country to supply other nations with deadly weapons and at the same time refuse to accept those war refugees?  I question the real reason for the 1,500% increase within 30 years in in-state tuition at the University of California?  I wonder why I deserve better health care as a public employee than someone who works as a fulltime bank teller or an office clerk. 

I recently visited many high tech companies where highly-paid employees are receiving free breakfast, lunch, dinner and transportation reimbursement while minimum wage earners pay 20 to 30 % of their earnings for transportation and food and are forced to forego health insurance? I personally know students at my college who live in their cars, or risk being homeless. Don’t get me wrong, I appreciate the fact that I have a house, a stable job and opportunities given to me by many individuals.  However, these opportunities should also be available to recent and future refugees, immigrants.

America can more than afford to share our rich natural and human resources with the world.  As a Vietnamese American, I am seeking a new administration that puts human rights, health care and education as high priorities because we are one of the world’s richest nations.  I want a political leader that advocates for peace, and welcomes immigrants and refugees to this beautiful land of the free.  Immigrants and refugees have built America. I support politicians that represent my values and I will vote for those who believe in equity, equality, social justice and protection of our Mother Earth for all! 

 

Minh Hoa Ta is a division dean at San Jose City College and a member of PIVOT (Progressive Vietnamese American Organization)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.