Hôm nay,  

Làm thế nào để ngăn chặn cuộc chiến Đài Loan?

19/04/202400:00:00(Xem: 806)
 Mao
 
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình.
  
Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
  
Trung Quốc coi Đài Loan là một tỉnh nổi loạn và là tàn dư của cuộc nội chiến Trung Quốc trong thập niên 1940. Mặc dù mối quan hệ Mỹ-Trung đã được bình thường hóa vào thập niên 1970, Đài Loan vẫn là một điểm gây tranh cãi. Tuy nhiên, một công thức ngoại giao trên giấy tờ để giải quyết các bất đồng đã được tìm thấy: Người Hoa ở cả hai bờ eo biển Đài Loan đồng ý rằng, chỉ có “một Trung Quốc”. Đối với người Mỹ, việc từ chối công nhận bất kỳ lời tuyên bố độc lập nào về mặt pháp lý của Đài Loan sẽ bảo đảm rằng, mối quan hệ của hòn đảo với lục địa sẽ được giải quyết bằng đàm phán, không phải bằng vũ lực. Tuy nhiên, Trung Quốc không bao giờ loại trừ việc sử dụng vũ lực.
  
Trong nhiều năm, chính sách của Mỹ được gọi là “sự mơ hồ chiến lược”, nhưng nó có thể được mô tả tốt hơn là “răn đe kép”. Mỹ muốn ngăn chặn Trung Quốc trong việc sử dụng vũ lực, nhưng cũng ngăn chặn Đài Loan khiêu khích Bắc Kinh bằng cách tuyên bố tình trạng độc lập chính thức. Điều đó có nghĩa là, [Mỹ] cung cấp cho Đài Loan các vũ khí để tự vệ, nhưng không đưa ra lời bảo đảm chính thức về an ninh, vì điều đó có thể cám dỗ cho Đài Bắc tuyên bố độc lập.
  
Do đó, khi tôi đến thăm Bắc Kinh vào năm 1995 với tư cách là một quan chức trong chính quyền Clinton và được hỏi, liệu Hoa Kỳ có thực sự mạo hiểm chiến tranh để bảo vệ Đài Loan không, tôi đã trả lời rằng điều đó có thể, mặc dù không ai có thể chắc chắn. Tôi chỉ ra rằng, vào năm 1950, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Acheson đã tuyên bố Triều Tiên nằm ngoài vành đai quốc phòng của chúng tôi. Tuy nhiên, trong vòng một năm, Trung Quốc và Mỹ đã giết hại lẫn nhau trên bán đảo Triều Tiên. Bài học lịch sử là, Trung Quốc không nên gây mạo hiểm.
Năm sau, sau khi tôi rời chính phủ, tôi được yêu cầu tham gia một nhóm cựu quan chức lưỡng đảng đến thăm Đài Loan. Chúng tôi đã gặp Tổng thống Trần Thuỷ Biển, là người có chuyến thăm “không chính thức” trước đây tới Mỹ, đã gây ra một cuộc khủng hoảng, trong đó Trung Quốc bắn tên lửa ra biển và Mỹ triển khai các tàu sân bay ra ngoài khơi của Đài Loan. Chúng tôi đã cảnh báo ông Trần rằng, nếu ông tuyên bố độc lập, ông không thể trông cậy vào sự hỗ trợ của Mỹ. Đó là “sự mơ hồ chiến lược”.
  
Trong nửa thế kỷ, bất chấp sự khác biệt về cách giải thích, công thức “một Trung Quốc” và học thuyết mơ hồ chiến lược của Mỹ đã gìn giữ hòa bình. Nhưng hiện nay, một số nhà phân tích đang kêu gọi sự rõ ràng hơn về chiến lược trong việc bảo vệ Đài Loan. Họ lưu ý rằng, Trung Quốc trở nên mạnh mẽ hơn nhiều so với năm 1971 hoặc năm 1995 và nước này đang phản đối mạnh mẽ hơn đối với các giai đoạn như chuyến thăm Đài Loan của Chủ tịch Hạ viện khi đó là Nancy Pelosi vào năm 2022.
  
Thêm vào tiềm năng cho tình hình bất ổn, hai tổng thống gần đây nhất của Đài Loan thuộc đảng Dân Tiến, mà họ chính thức ủng hộ tình trạng độc lập, và các cuộc thăm dò dư luận cho thấy rằng, hầu hết người Đài Loan không tự coi mình là người Trung Quốc. Liệu việc răn đe kép vẫn còn tác dụng không?
  
Về phần mình, Tổng thống Mỹ Joe Biden đã đưa ra bốn lời tuyên bố, cho thấy, ông sẽ bảo vệ Đài Loan nếu Trung Quốc sử dụng vũ lực. Nhưng mỗi lần [ông Biden tuyên bố], Nhà Trắng đều “làm rõ” rằng Mỹ không thay đổi chính sách của mình.
  
Do đó, chính quyền đã cố gắng tăng cường khả năng răn đe quân sự để chống lại một cuộc tấn công của Trung Quốc, trong khi không kích động cho Trung Quốc đi vào một hành vi rủi ro hơn, bằng cách đặt vấn đề về chính sách “một Trung Quốc”. Mục tiêu là kéo dài hiện trạng vô thời hạn. Liệu việc này sẽ hữu hiệu? Theo Henry Kissinger, người làm trung gian trong việc bình thường hóa hồi thập niên 1970, Mao Trạch Đông đã nói với Richard Nixon rằng, Trung Quốc có thể đợi một thế kỷ cho việc thu hồi Đài Loan.
  
Nhưng Tập Cận Bình, nhà lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc, có vẻ như thiếu kiên nhẫn hơn nhiều. Mối quan tâm chính của ông ta là kiểm soát đảng Cộng sản Trung Quốc và bảo đảm đảng CSTQ tiếp tục kiểm soát Trung Quốc. Mặc dù một cuộc xâm lược Đài Loan thất bại có thể gây nguy hiểm cho cả hai phe, một lời tuyên bố độc lập của Đài Loan cũng có thể khiến ông [Tập] cảm thấy bị đe dọa ở trong nước và sẵn sàng chấp nhận các rủi ro lớn hơn. Lời nói của các quan chức nhà nước có thể ảnh hưởng đến sự cân bằng tinh tế này.
  
Nhưng trong ngành ngoại giao, các hành động có ý nghĩa lớn nhất và có một số hành động mà Mỹ có thể thực hiện để tăng cường việc răn đe. Vì một hòn đảo có 24 triệu dân không bao giờ có thể đánh bại một quốc gia với hơn một tỷ dân về mặt quân sự, Đài Loan phải có khả năng kháng cự đủ mạnh để làm thay đổi sự tính toán của Tập Cận Bình. Người ta phải làm cho Tập hiểu rằng, ông ta không thể thực hiện một sự đã rồi nhanh chóng.
  
Để đạt được điều đó, Đài Loan không chỉ cần máy bay và tàu ngầm tiên tiến, mà còn cần các tên lửa có thể được giấu trong hang động để tồn tại lâu dài hơn trong cuộc tấn công đầu tiên của Trung Quốc. Nó phải trở thành một con nhím mà không sức mạnh nào có thể nuốt chửng nhanh gọn được. Là một hòn đảo cách bờ biển Trung Quốc 100 dặm (161 km), Đài Loan được hưởng lợi từ một con hào rộng lớn khiến cho một cuộc xâm lược trở nên khó khăn. Nhưng vùng biển này cũng có nghĩa là Trung Quốc có thể thực thi một cuộc phong tỏa hải quân để buộc Đài Loan phải khuất phục.
  
Do đó, Đài Loan cần tăng cường dự trữ lương thực và nhiên liệu, Mỹ và các đồng minh phải nói rõ rằng, họ sẽ không tôn trọng việc phong tỏa của Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là, bố trí các hệ thống quân sự của Mỹ ở Nhật, Úc và Philippines có thể vươn tới Đài Loan trong vòng một tuần. Điều này sẽ làm giảm sự mơ hồ trong khả năng răn đe của Mỹ. Đồng thời, Mỹ không nên từ bỏ các đặc điểm cơ bản của việc răn đe kép.
  
Ngăn chặn một cuộc chiến đòi hỏi phải cho Trung Quốc thấy rằng, Mỹ và các đồng minh có khả năng bảo vệ Đài Loan, và nhắc nhở các nhà lãnh đạo của hòn đảo rằng, việc tuyên bố độc lập về mặt pháp lý sẽ là sự khiêu khích và không thể chấp nhận được.
  
Đã có nhiều thay đổi kể từ khi Nixon và Mao phát minh ra công thức “một Trung Quốc”. Nhưng công thức đó, nếu kết hợp với các biện pháp khác được nêu ở trên, vẫn có thể giúp ngăn chặn cuộc chiến Đài Loan.
 
-- Joseph S. Nye, Jr.
Đỗ Kim Thêm dịch
 
Joseph S. Nye, Jr., là giáo sư hồi hưu của trường Harvard Kennedy và là cựu Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ. Ông còn là tác giả của cuốn sách: Do Morals Matter? Presidents and Foreign Policy from FDR to Trump (do NXB Oxford University Press ấn hành năm 2020) và “A Life in the American Century” (do NXB Polity Press ấn hành năm 2024).
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thời gian còn làm Trung Sĩ Thông Dịch Viên trong Bộ Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ ở căn cứ Long Bình, Việt Nam vào năm 1969, trước khi tôi được chuyển sang phục vụ trong ngành phi hành của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi có dịp tháp tùng phái đoàn Dân Sự Vụ (Civic Action) Lữ Đoàn 18 Quân Cảnh Hoa Kỳ (U.S. 18th Military Police Brigade) đi công tác ở Nhật Bản. Cũng trong chuyến công du này tôi đã phát hiện ra rằng, Nhật Bản là một quốc gia thực thi được chính sách phát triển kinh tế làm thịnh vượng cho toàn thể xã hội, và xóa bỏ được nhiều điều bất công...
Trong bất kỳ cuộc đấu tranh nào, cần phải phân loại, xác định rõ ràng các loại “địch” để tìm cách đối phó hoặc vận động gây cảm tình làm đồng minh, tùy loại địch. Mọi người thường nói, “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng” là vậy.
Chỉ trong vòng 465 ngày (26/04/2024-17/01/2023) đảng CSVN đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng lãnh đạo thượng tầng chưa từng có trong lịch sử. Người duy nhất vẫn “vững như bàn thạch” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 80 tuổi, nhưng ai sẽ thay ông Trọng để lãnh đạo đảng, sau Đại hội toàn quốc tháng 01 năm 2026 là câu hỏi chưa có câu trả lời...
Mới đây ở Việt Nam lại bùng nổ ra một vài vụ tham nhũng khá nghiêm trọng như vụ Vạn Thịnh Phát và Việt Á. Vào đầu năm nay, Transparency International báo cáo kết quả nghiên cứu tình trạng tham nhũng tại 180 nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nhân dịp này chúng ta duyệt lại tình trạng tham nhũng ở Việt Nam.
Câu nói của cố thủ tướng Việt Cộng là Võ Văn Kiệt rằng ngày 30-4 có một triệu người vui và một triệu người buồn...
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.