Hôm nay,  

George Washington Sẽ Không Đồng Ý Với Pete Hegseth Về Tư Cách Lãnh Đạo Và “Tinh Thần Chiến Binh”

10/10/202500:00:00(Xem: 761)

Pete_Washington

Tầm nhìn của Washington về một người lãnh đạo quân sự hoàn toàn khác xa hình ảnh chiến binh cơ bắp mà Hegseth đang tô vẽ. Ảnh: Một phần của Tranh do Currier và Ives và Pete trên ‘khán đài’ cuối tháng 9.


Tầm nhìn của Washington về một người lãnh đạo quân sự hoàn toàn khác xa hình ảnh chiến binh cơ bắp mà Hegseth đang tô vẽ. Ảnh: Một phần của Tranh do Currier và Ives và Pete trên ‘khán đài’ cuối tháng 9.
 
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”.

Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.

Tại Quantico, Hegseth giảng giải về những phẩm chất mà, theo ông, người lính Mỹ – nhất là sĩ quan cấp cao – cần có:  “Không thể chấp nhận được khi thấy những tướng và đô đốc béo phệ đi lại trong hành lang Ngũ Giác Đài.”  Rồi quay sang chuyện râu tóc: “Không còn mấy anh để râu. Thời của những giấy miễn cạo râu vô lý đã chấm dứt.”

Nếu George Washington có mặt hôm ấy, hẳn ông sẽ nhướng mày. Theo Giáo sư Maurizio Valsania – người chuyên nghiên cứu về Washington – vị tổng tư lệnh Lục quân chỉ có thể đồng ý ít điểm trong đó.

Với Washington, mối bận tâm của Hegseth về “tướng béo” thật nực cười. Một số sĩ quan tài năng nhất của ông đều có thân hình đồ sộ. Henry Knox – chỉ huy pháo binh mà Washington tin cậy nhất – nặng gần 280 lbs. Viên sĩ quan Pháp Marquis de Chastellux, từng phục vụ cùng Washington, mô tả Knox là “rất béo, nhưng nhanh nhẹn, vui tính và dễ mến.”

Tướng William Heath thì “có vẻ mặt khôi ngô, đầu hói, thân hình đẫy đà,” trông “giống hệt Lord Granby,” vị tướng Anh nổi tiếng vì lòng dũng cảm và sự tận tụy.

Washington chưa từng xem cân nặng là tội lỗi. Ông giao cho Knox những nhiệm vụ khó nhất – thiết kế công sự, chỉ huy pháo binh, rồi chỉ đạo chiến dịch vận chuyển đại bác từ Fort Ticonderoga về Boston, cú đòn quyết định trong cuộc chiến giành độc lập. Sau Cách mạng, Washington còn bổ nhiệm Knox làm Bộ trưởng Chiến tranh. Rõ ràng, ông không đo nhân cách bằng vòng eo.

Còn chuyện râu? Ở điểm này, Washington có thể đồng ý với Hegseth – nhưng vì lý do khác hẳn.

Ông không ưa râu, không phải vì nó “thiếu nam tính,” mà vì nó che đi vẻ nghiêm nghị và tiết độ mà ông xem là cốt lõi của người quân nhân.

Trong quân lệnh, Washington viết rằng mỗi binh sĩ phải xuất hiện “chỉnh tề trong giới hạn hoàn cảnh cho phép.” Ông yêu cầu: “Râu phải cạo, tóc phải chải, mặt phải rửa sạch và quần áo phải chỉn chu nhất trong khả năng người lính có thể ăn mặc.” Với ông, đó không chỉ là chuyện hình thức. Ngoại diện phản ánh nội tâm. Một thân thể gọn gàng cho thấy một tâm trí có kỷ luật.

Ông xem sự chỉnh tề là nền tảng của tự chủ – mà tự chủ, với ông, là nguồn gốc của mọi đức hạnh. Vì thế, ông coi râu ria lôi thôi là “sự thiếu nghiêm chỉnh,” hoàn toàn không thích hợp với “sự tinh tế của tính cách mà một sĩ quan cần giữ trong mọi hoàn cảnh.”

“Tinh tế,” với Washington, không phải yếu đuối. Đó là khả năng tự chế, biết giữ chừng mực giữa quyền lực và trách nhiệm. Ông tin rằng chiến thắng đầu tiên của người lính là chiến thắng chính mình. Ông từng viết: “Người biết chú tâm vào bổn phận của mình sẽ cảm thấy trong lòng có một tiếng nói nhắc rằng bước đầu tiên phải được dẫn dắt bởi sự thận trọng – phẩm chất mà mọi người, khi được trao quyền, đều phải có.”

Washington là chiến binh không vì yêu chiến trận, mà vì xem đời lính là bài học tối cao của kỷ luật và điềm tĩnh. Với ông, “tinh thần chiến binh” trước hết là đạo đức, sau mới là gươm giáo.

Hình mẫu người chỉ huy mà ông đề cao là người quân tử – một “chính khách” biết tiết chế sức mạnh bằng lý trí. Quyền lực quân sự, theo ông, phải gắn với đạo lý và phục vụ tự do, không phải vinh quang cá nhân.

Trong mắt Washington, quân đội không phải một đẳng cấp riêng biệt, mà là công cụ của nền cộng hòa. Nơi ấy, phẩm hạnh con người mới là thứ được thử thách. Các thế hệ sau gọi đó là mẫu “vị tướng cộng hòa” – người mà uy quyền không đến từ cơ bắp, mà từ đức điềm đạm và tự chủ.

Tầm nhìn ấy trái ngược hoàn toàn với màn trình diễn của Pete Hegseth ở Quantico. “Tinh thần chiến binh” mà Hegseth tôn sùng – ồn ào, phô trương và gần như nghiện soi gương – chính là điều Washington từng dặn quân sĩ phải dẹp bỏ.

Tháng 3 năm 1778, sau khi tướng Lafayette phải hủy cuộc hành quân mùa đông sang Canada, Washington viết cho ông từ vùng tuyết Valley Forge: “Mọi người đều sẽ tán thưởng sự thận trọng của ông khi ông từ bỏ một kế hoạch mà trong đó ông chỉ có thể phí công đương đầu với những điều không thể.”

Lòng can đảm, với ông, không bao giờ đồng nghĩa với liều lĩnh. Thành công đến từ tầm nhìn, không phải cơn thịnh nộ – và càng không từ sự khoe khoang.

Washington chẳng bận tâm đến vòng eo hay chòm râu. Ông đo con người bằng kỷ luật và khả năng tự chế. Điều quyết định, ông tin, không phải dáng vóc, mà là phán đoán. Tinh thần chiến binh của Washington bắt nguồn từ lễ độ, tự chủ và dũng khí không cần giận dữ. Từ lý tưởng ấy, ông dựng nên một quân đội – và rồi, một nền cộng hòa.

Nguyên Hòa biên dịch
Tóm lược theo bài của Maurizio Valsania, Giáo sư Sử học Hoa Kỳ tại Đại học Torino, đăng trên The Conversation US ngày 2 tháng 10 năm 2025.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.