Hôm nay,  

‘Iraq Hóa Chiến Tranh’

08/12/200600:00:00(Xem: 9407)

Kết Quả Nghiên Cứu Vấn Nạn Iraq Của Nhóm Baker – Hamilton: ‘Iraq Hóa Chiến Tranh’

Sáng Thứ Tư 6/12/2006, Nhóm Nghiên Cứu Iraq (Iraq Study Group – ISG) gồm 10 nhân vật thuộc hai đảng Cộng hòa và Dân chủ (1) sau khi chính thức chuyển cho tổng thống Bush bản nghiên cứu về tình hình Iraq đã cho phổ biến đến báo chí qua một cuộc họp báo tại Hoa Thịnh Đốn. Bản nghiên cứu dài 160 trang bao gồm tất cả mọi khía cạnh của vấn nạn Iraq và các giải pháp đề nghị.

Bản tường trình gồm 79 đề nghị. Nhưng tựu trung có thể tóm tắt trong bốn chữ “Iraq hóa chiến tranh” như chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” cách đây 38 năm sau cuộc tấn công Mậu Thân, khi Hoa Kỳ biết không thể thắng và chuẩn bị rút quân. Khác chăng là trong bản văn dài nhóm ISG không hề nhắc đến bốn chữ  nhạy cảm đó. Hội chứng Việt Nam vẫn là điều còn làm Hoa Kỳ nhức nhối.

“Iraq hóa chiến tranh” là chiến lược của nhóm ISG do cựu bộ trưởng bộ Ngoại giao James Baker III cầm đầu và cũng là con đường tổng thống Bush phải chọn lựa. Từ tướng lãnh đến các viên chức cao cấp trong ngành ngoại giao đều hiểu tình hình tại Iraq chỉ có một con đường độc đạo là “Iraq hóa chiến tranh ” và rút lui càng nhanh càng tốt trước khi quá trễ.

Nhóm ISG đề nghị:

1. Tăng cường huấn luyện quân đội Iraq để họ có thể duy trì an ninh ngăn chận một cuộc nội chiến lan rộng.

2. Hoa Kỳ cắt bớt viện trợ nếu chính phủ Iraq không cải thiện được tình hình.

3. Hoa Kỳ tái phối trí quân đội (có nghĩa là rút quân) tùy theo tình trạng an ninh, và sẽ chấm dứt nhiệm vụ tác chiến từ đầu năm 2008.

4. Quan hệ với Iran và Syria và yêu cầu hai nước này giúp ổn định tình hình tại Iraq và Trung đông.

5. Hoa Kỳ cần tìm một giải pháp cụ thể cho cuộc tranh chấp Do Thái - Palestines

6. Tổng thống Bush cần nhanh chóng hành động trước khi tình hình Iraq trở nên tồi tệ hơn và những đề nghị của nhóm trở thành vô giá trị.

Nếu nhìn lại cuộc chiến Việt Nam, vào đầu năm 1968 sau trận Mậu Thân, tướng William Westmoreland xin thêm 206.000 quân nhưng tổng thống Johnson từ chối. Ông tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nữa, đề nghị hòa đàm với Hà Nội và thi hành kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh để chuẩn bị rút quân.

Chương trình Việt Nam hóa chiến tranh chính yếu gồm 3 điểm:

(1) Tăng  cường quân số quân đội Việt Nam Cộng Hòa,

(2) Hoa Kỳ rút quân dần tùy theo sự vững mạnh của miền Nam Việt Nam

(3)  Nhờ Liên bang Xô viết và Trung quốc can thiệp.

Trong hai chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh” và  “Iraq hóa chiến tranh” cái chính là quân đội Hoa Kỳ có thể rút lui, còn việc huấn luyện quân địa phương để tự bảo vệ chỉ là một cái cớ. Tuy nhiên hai cuộc “địa phương hóa chiến tranh” để Hoa Kỳ rút ra khỏi hai cuộc chiến có một khác biệt căn bản.

Công cuộc Việt Nam hóa chiến tranh có thể thành công nếu Hoa Kỳ khi ký Hiệp định Paris năm 1973 buộc quân đội Bắc Việt phải rút ra khỏi miền Nam. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa tuy không được lãnh đạo bởi những tướng lãnh tài ba (vì đa số đều được người Pháp đào tạo qua một chương trình nhẹ và cấp tốc), nhưng các sĩ quan trẻ đào tạo từ các quân trường lớn ở miền Nam như trường Võ bị Đà lạt, trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang đều là những sĩ quan có khả năng và có ý thức chiến đấu cho một miền Nam tự do (nhưng rất tiếc chưa có đủ thì giờ để giữ nhiệm lãnh đạo) và binh sĩ đều là lính thiện chiến. Cuộc tấn công của quân đội Bắc việt trong dịp Tết Mậu Thân, trong khi 50% quân lính đi nghỉ phép trong thời gian hai bên đồng ý ngưng bắn và quân đội Hoa Kỳ gần như bất động, quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng không để mất một đồn bót hay một thành phố nào quan trọng.

Một khác biệt khác cũng cần được nêu ra. Trong thời gian Việt Nam hóa chiến tranh, trong khi quân đội Hoa Kỳ rút về dần dần tình hình miền Nam vẫn ổn định. Từ chiến trường về binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa cũng như binh sĩ Mỹ có thể thảnh thơi an toàn tại các thành phố cũng như tại các trại gia binh.

Tình hình Iraq hiện nay khác hẳn. Không một nơi nào tại Iraq người lính Hoa Kỳ được an toàn, ngoại trừ “vùng xanh” (Green Zone) tại trung tâm Baghdad nơi đóng tòa đại sứ Mỹ, chính phủ, quốc hội Iraq và bộ tư lệnh liên quân Hoa Kỳ-Iraq.

Và với đà bạo loạn hiện nay của cuộc nội chiến giữa giáo phái Shite và Sunni, “vùng xanh” có thể sẽ không được an toàn bao lâu nữa. Thượng nghị sĩ John McCain khi đề nghị đưa thêm 20.000 binh sĩ Hoa Kỳ sang Iraq có thể không phải để chận đứng cuộc nội chiến (vì trên thực tế cuộc nội chiến đã diễn ra và càng ngày càng khốc liệt) mà để bảo vệ “vùng xanh”. Hoa Kỳ cần có một vùng an toàn nếu cần phải rút lui trước áp lực.

Không ai ngạc nhiên thấy những tuần lễ trước khi Nhóm nghiên cứu Iraq công bố công thức giải quyết cuộc chiến Iraq, tổng thống Bush nhiều lần tuyên bố “quân đội Hoa Kỳ không rút lui theo một thời biểu nhất định, và chỉ rút khi nhiệm vụ hoàn thành”. Nhiêm vụ hoàn thành ở đây có nghĩa là chính phủ Iraq thân Hoa Kỳ có thể đứng vững. Và điều này là một điều đồng thuận của cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ.

Trên nguyên tắc Hoa Kỳ sẽ rút quân tùy thuộc vào sự tiến bộ của công cuộc huấn luyện quân đội Iraq. Nhưng xác định thế nào là tiến bộ lại là một vấn đề chính trị. Khi nào thấy cần một đợt rút quân (vì tình hình tại chỗ hay vì những đòi hỏi chính trị trong nước) thì các nhà chính trị nói là đã có tiến bộ. Đó là chuyện đã diễn ra tại Việt Nam. Các đợt rút quân của Hoa Kỳ từ năm 1968 đến năm 1973 tùy theo kết quả của cuộc thương thuyết tại Paris, chứ không liên quan gì đến quân đội Việt Nam Cộng Hòa mạnh hay yếu.

Điều hiển nhiên không thể tránh được là nội chiến sẽ diễn ra tại Iraq để kiểm soát quyền hành chính trị khi quân đội Hoa Kỳ không còn đóng một vai trò quan trọng tại đó. Nhưng Hoa Kỳ sẽ không thể ngoảnh mặt như đã làm ở Việt Nam, vì Hoa Kỳ còn những quyền lợi sinh tử tại Trung đông.

Hoa Kỳ sẽ giúp phe thắng thế trong cuộc nội chiến để duy trì một chính phủ thân Hoa Kỳ ở một  mức độ nào đó tại Iraq. Đó là lý do tại sao  thủ tướng Nuri al-Maliki yêu cầu Hoa Kỳ giao quân đội Iraq cho chính phủ ông, tổng thống Bush vẫn không chịu giao. Thủ tướng Nuri al Maliki thuộc giáo phái Shite muốn nằm quân đội để nắm chính quyền tại Iraq sau khi Hoa Kỳ rút lui, nhưng Hoa Kỳ biết quân đội Iraq (được Hoa Kỳ huấn luyện) không có khả năng đó và có thể nhóm du kích thuộc giáo pháo Sunni ủng hộ cựu tổng thống Saddam Hussein sẽ cướp chính quyền sau một cuộc nội chiến ngắn ngủi. Một chính phủ Sunni sẽ là một chính phủ thù nghịch với Hoa Kỳ, trong khi một chính phủ do người Shite kiểm soát có  nhiều triển vọng thân Hoa Kỳ hơn.

Nhiệm vụ của Nhóm Nghiên Cứu Iraq cũng không ngoài mục đích đó. Và đảng Dân chủ vừa kiểm soát quốc hội cũng sẽ hiểu thông điệp của dân để giải quyết vấn đề Iraq. Dân Mỹ muốn rút ra khỏi vũng lầy Iraq nhưng dân Mỹ không muốn bỏ chạy, cũng như không muốn để cho kho dầu hỏa tại Iraq rơi vào tay một chính phủ thù nghịch.

Và sự khéo léo của hai đảng Cộng Hòa và Dân chủ trong canh bạc Iraq sẽ là một yếu tố quan trọng trong cuộc bầu cử tổng thống 2008. Không phải không có lý do khi từ tổng thống Bush đến nhóm ISG đều quả quyết sẽ không ấn định một thời biểu rút quân, nhưng trong bản nghiên cứu nhóm ISG xác định đầu năm 2008 quân đội Hoa Kỳ sẽ thôi nhiệm vụ tác chiến tại Iraq. Đầu năm 2008 là thời điểm cuộc tranh cử tổng thống bắt đầu sôi nổi.

Đã có quá nhiều bút mực so sánh hai cuộc chiến Việt Nam và Iraq nên ở đây tôi không có ý so sánh hai cuộc chiến. Hai cuộc chiến kết thúc giống nhau qua công thức “Việt nam hóa chiến tranh” và “Iraq hóa chiến tranh” (một bên minh danh, một bên hiểu ngầm) nhưng bản chất hai cuộc chiến khác nhau.

Cái khác nhau đập vào mắt người quan sát là sự liên hệ của Hoa Kỳ đến cuộc chiến Việt Nam là kết quả của cuộc chiến tranh lạnh và diễn ra một cách tiệm tiến qua nhiều thời tổng thống Hoa Kỳ. Trong khi cuộc chiến Iraq là do sự tính toán sai lầm của một số chính khách, vừa thiếu tầm nhìn, vừa thiếu kinh nghiệm lãnh đạo.

Cuộc chiến Việt Nam có thể thắng nếu Hoa Kỳ không có những McNamara điều khiển chiến tranh bằng điện toán, không có Henry Kissinger tráo trở, không có Nixon bị vướng vào vụ Watergate để phải từ chức, không có Ngô Đình Diệm phạm sai lầm về chính sách tôn giáo, và trong thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam có một tướng như de Gaulle của Pháp hay ít nhất như Pak Chung Hy của Nam Hàn.

Hôm 3/12/2006 báo chí Hoa Kỳ tiết lộ bộ trưởng quốc phòng Rumsfeld trước cuộc bầu cử ngày 7/11/2006 đã trình tổng thống Bush một phiếu trình trình bày những quan điểm của ông. Những quan điểm này khác hẳn với những gì ông từng tuyên bố từ năm 2003 khi quân đội Hoa Kỳ bắt đầu tiến đánh Iraq. Danh sách đề nghị của ông khá dài: Ông nói quân đội  Hoa Kỳ đã không thành công ở Iraq, và chính phủ cần chuẩn bị tâm lý dân chúng cho một sự thay đổi sách lược. Phiếu trình bàn đến việc giảm quân, tái phối trí quân đội Hoa Kỳ tại Iraq như tập trung quân đội Hoa Kỳ từ 55 căn cứ như hiện nay còn 5 căn cứ và đóng tại những vùng an toàn tại Iraq hay tại Kuwait để sẵn sàng can thiệp, và cắt ngân khoản tái thiết ở những tỉnh chính quyền Iraq tỏ ra bất lực.

Hai đề nghị phụ của Rumsfeld là nếu cần nên kêu gọi một hội nghị quốc tế (như hội nghị Dayton- Ohio để giải quyết tình hình Bosnia năm 1995) và sẵn sàng gởi thêm quân để giữ an ninh cho Baghdad trước khi sụp đổ.

Phiếu trình của bộ trưởng Rumsfeld làm người ta nhớ đến sự thay đổi lập trường của bộ trưởng Robert McNamara trong chiến tranh Việt Nam. Nhưng nếu sự thay đổi của McNamara là do sự nhận thức của chính cá nhân ông sau khi đọc bản tường trình Pentagon (Pentagon Papers) do chính ông ra lệnh sưu tầm, phiếu trình của bộ trưởng Rumsfeld có thể là một tính toán nội bộ của đảng Cộng hòa để tìm một đối sách trước sự thất bại hiển nhiên trước mắt.

Song song với đề nghị của Nhóm Nghiên Cứu Iraq tổng thống Bush cũng đã ra  lệnh cho Hội đồng An Ninh quốc gia, bộ tham mưu liên quân và bộ Ngoại giao nghiên cứu và đề ra những giải pháp. Tổng thống Bush muốn có sẵn trong tay nhiều báo cáo và đề nghị để chọn con đường nào ông nghĩ ít thiệt thòi nhất cho đảng Cộng hòa trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2008. Đó là trang giấy ông muốn dành cho ông trong lịch sử Hoa Kỳ.

Dù sao vấn đề Iraq xem như sẽ kết thúc với việc “Iraq hóa chiến tranh”. Hoa Kỳ sẽ thành công nếu sau một cuộc chém giết vì nội chiến khó tránh khỏi, một chính phủ Iraq thân Hoa Kỳ còn tồn tại. 

Ngược lại là một thất bại lớn của Hoa Kỳ và Trung đông sẽ trở thành một cứ địa chống Hoa Kỳ trên thế giới.

Trần Bình Nam

Dec. 7, 2006

[email protected]

www.tranbinhnam.com

(1) Hai đồng chủ tịch James Baker III, bộ trưởng ngoại giao dưới thời tổng thống George H. W. Bush; Lee H. Hamilton, Dân biểu Dân chủ nguyên chủ tịch ủy ban Ngoại giao Hạ nghị viện; và tám ủy viên: Vernon E. Jordan Jr., cố vấn Bạch Cung dưới thời tổng thống Clinton; Edwin Meese III, bộ trưởng Tư pháp dưới thời tổng thống Reagan; Sandra Day O’Connor, nguyên chánh án Tối cao Pháp viện; Lawrence S. Eagleburger, cựu bộ trưởng bộ Ngoại giao (thay thế ông Robert Gates khi Gates được bổ nhiệm làm bộ trưởng quốc phòng sau khi bộ trưởng Donald Rumsfeld từ chức); Leon L. Panetta, Tham mưu trưởng Bạch cung dưới thời tổng thống Clinton; William J. Perry, nguyên bộ trưởng quốc phòng dưới thời tổng thống Clinton; Charles S. Robb, cựu Thượng nghị sĩ Dân chủ đại diện bang Virginia, và Alan K. Simpson, nguyên Thượng nghị sĩ Cộng hòa đại diện bang Wyoming.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.