Hôm nay,  

The Odyssey: Truyện Kể Bằng Âm Nhạc Và Thông Điệp Của Người Việt Tị Nạn Sau 50 Năm Kết Thúc Chiến Tranh

16/05/202500:00:00(Xem: 1645)

the odyssey
Vân Ánh Võ và Blue Moon Orchestra trong buổi hòa nhạc The Odyssey—From Vietnam To America (Ảnh: James Giovanni Pan)
 
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, đại học UC Irvine tổ chức ba sự kiện văn hóa trong ba ngày 7,8,9 tháng 5 năm 2025. Mở đầu là hội thảo “Những Câu Chuyện Từ Việt Nam Tới Hoa Kỳ  - 50 Năm Lịch Sử Và Cộng Đồng”; kế đến là buổi hoà nhạc The Odyssey—From Vietnam To America của nghệ sỹ đoạt giải Emmy Vân Ánh Võ; kết thúc là buổi chiếu phim New wave của đạo diễn Elizabeth Ai. Trong ba sự kiện này, buổi hòa nhạc The Odyssey đòi hỏi sự chuẩn bị công phu, kéo dài từ nhiều tháng trước. Trên sân khấu, Vân Ánh đã nhiều lần cảm ơn những tấm lòng hảo tâm đã giúp cô đem được buổi trình diễn đến với Quận Cam, thủ phủ của người Việt tị nạn ở Mỹ.
 
The Odyssey (Cuộc Phiêu Lưu) là truyện kể bằng âm nhạc về hành trình vượt biển của người Việt tị nạn. Kể truyện bằng nhạc không lời đòi hỏi sự sáng tạo của người nghệ sĩ và trí tưởng tượng của người nghe. Tác phẩm bao gồm năm chương: I. Leaving (Lìa Xa); II. Scorching Sun (Nắng Cháy); III. Nước – My Country; IV. Light of Hope (Ánh Sáng Hy Vọng); V. Beyond the Seas: The Americana (Nước Mỹ Bên Kia Bờ Đại Dương). Kết hợp với âm nhạc là âm thanh, hình ảnh, Vân Ánh đem khán giả trở lại với hành trình gian khổ, bi thương của những người Việt đi tìm tự do, từ lúc bắt đầu rời quê hương cho đến lúc đặt chân lên bến bờ tự do. Cùng kể chuyện bằng âm nhạc với Vân Ánh là ban nhạc Blood Moon, với những gương mặt quen thuộc trong những buổi biểu diễn của Vân Ánh trong nhiều năm qua: Sheldon Brown (bộ kèn); Joel Davel (Marimba Lumina, bộ gõ); Jimi Nakagawa (bộ gõ, trống Taiko). Vân Ánh là linh hồn của ban nhạc với đàn tranh, đàn bầu, đàn t'rưng.
 
Để có ý tưởng thực hiện The Odyssey, Vân Ánh đã phỏng vấn hơn 50 thuyền nhân Việt. Lắng nghe câu chuyện của họ, đồng cảm với những cảm xúc của họ. Đối với hầu hết những thuyền nhân, cảm xúc vẫn tiếp tục ở lại trong tâm trí rất lâu. Đối với một số người, nỗi đau vẫn còn suốt đời.
 
Bằng sự sáng tạo trong âm nhạc, Vân Ánh cố gắng tái tạo lại ký ức của người vượt biển. Khi được hỏi những âm thanh nào vẫn ám ảnh họ đến tận ngày hôm nay, nhiều người trả lời đó là tiếng sóng biển và tiếng động cơ máy diesel của tàu vượt biên. Để tái tạo tiếng sóng biển, Vân Ánh tự tạo ra một dụng cụ có hình như một tang trống dẹp, kích thước cỡ bằng chiếc nón quai thao, bên trong có chứa cát. Khi cô di chuyển, nghiêng trống theo những góc độ khác nhau, khán giả tưởng chừng như đang nghe tiếng những đợt sóng vỗ nhẹ vào bãi cát trên một bờ biển vắng lặng.
 
Còn tiếng động cơ? Trong chương một (Leaving), Vân Ánh sưu tập, thâu âm và sử dụng tiếng động cơ diesel để diễn tả hành trình của một con tàu vượt biên. Tiếng máy nổ có khác nhau trong từng giai đoạn. Có lúc tiếng máy nổ đều đều, con thuyền đang vượt sóng. Có lúc máy chết đột ngột, rồi cố gắng khởi động lại, là khoảng khắc của sự hoang mang, lo lắng giữa biển khơi. Nhưng kinh hoàng nhất là tiếng động cơ mạnh mẽ, dồn dập, vô cảm, mang tính hủy diệt của những chiếc tàu hung hãn của bọn hải tặc. Làm sao những người đã từng trải qua một hành trình vượt biên có thể quên được?
 
Câu chuyện của người vượt biển được Vân Ánh kể bằng một thứ âm nhạc tượng thanh, tượng hình. Đó là sự hòa điệu độc đáo, sáng tạo giữa các nhạc cụ Việt Nam, âm thanh điện tử và nhạc cụ phương Tây, cùng nhau tạo ra một ngôn ngữ âm nhạc chung. Làn điệu dân ca Việt Nam, đặc biệt là những bài hát ru luôn đóng một vai quan trọng, nhưng không phải lúc nào Vân Ánh cũng bám lấy âm hưởng ngũ cung của nhạc Việt. Hầu hết âm điệu để diễn tả hành trình vượt biển đều phối âm theo phong cách trừu tượng hiện đại. Có lúc, người nghe tiếng đàn tranh giống như tiếng guitar điện với những hợp âm nghịch theo phong cách Tây Phương, tạo cảm giác đầy bất an, hối hả. Nhưng cũng có lúc lời ru con trở lại, như tâm trạng nhớ nhà của những kẻ mới rời bỏ quê hương.
 
Quan niệm của Vân Ánh là không đặt ra ranh giới giữa âm nhạc truyền thống Việt Nam và những nền dân nhạc thế giới. The Odyssey cũng không phải là một ngoại lệ. Khán giả có lúc bị mê hoặc bởi tiếng đàn t’rưng trên nền nhạc là tiếng kèn saxo theo phong cách Blues & Jazz. Có lúc tiếng đàn t’rưng hoà nhịp cùng hai bộ gõ và trống Taiko; cùng tạo ra một sự hòa điệu phi dân tộc tính độc nhất vô nhị.
 
Sự sáng tạo trong âm nhạc của Vân Ánh thể hiện qua nhiều cách. Một nhạc sĩ violin là khán giả trong buổi hòa nhạc nói rằng cách mà Vân Ánh sử dụng thanh vĩ để kéo đàn tranh, kéo đàn bầu là một sự sáng tạo độc đáo. Vân Ánh nghĩ ra cách này để tạo thêm âm sắc cho những nhạc cụ dân tộc của Việt Nam. Một sự kết hợp với nhạc cụ thuộc các truyền thống âm nhạc khác, làm đa dạng thêm nhạc cụ cổ truyền Việt Nam.
 
The Odyssey khởi đầu với hình ảnh trên màn ảnh sân khấu của những đứa trẻ trong gia đình Việt kể về câu chuyện vượt biên của ông bà cha mẹ. Khán giả có lúc chăm chú theo dõi, thưởng ngoạn những người nghệ sĩ biểu diễn nhạc cụ với những thanh âm có sức mạnh tạo hình; có lúc nhắm mắt lại để theo giai điệu sống lại với hành trình của người vượt biển. Giai điệu có lúc nặng nề lo âu, có lúc khắc khoải tuyệt vọng, có lúc bừng lên những tia hy vọng. Trong chương kết thúc là những hình ảnh của người Việt tị nạn tại bến bờ tự do Hoa Kỳ. Khán giả có cảm giác như trút hết được những nỗi u hoài khi nghe giai điệu Mỹ quen thuộc “The House of The Rising Sun”, như lời người Mỹ chào đón người di dân. Rồi nghe Elvis Phương hát “Tung cánh chim tìm về tổ ấm…” trên sân khấu hải ngoại để thấy người Việt đã nhận nơi đây là quê hương mới. Với âm nhậc, Vân Ánh phác họa lại ý chí sinh tồn không ngừng nghỉ; quyết tâm không lay chuyển để thành công của những thuyền nhân Việt Nam. Sau 50 năm hội nhập, người Việt đạt được những thành tựu đáng khâm phục, góp phần làm giàu thêm cho quê hương mới trong mọi lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị, văn học nghệ thuật…  Phần cuối trên sân khấu là rất nhiều hình ảnh những gương mặt đã góp phần tô đậm thêm giá trị của người di dân Việt, từ Lương Xuân Việt cho đến Ocean Vuong… Cuộc phiêu lưu đầy hiểm nguy đi tìm miền đất hứa của người Việt tị nạn thế hệ đầu tiên nay đã đạt được những thành quả tốt đẹp, được tiếp nối bởi thế hệ thứ hai, thứ ba lớn lên, sinh ra ở Mỹ.
 
Đằng sau câu truyện được kể bằng âm nhạc trong The Odyssey là những thông điệp gì? Người Việt tị nạn có thể tự hào về tinh thần vượt khó, sức mạnh ý chí đáng kinh ngạc của mình. Nhưng đây không phải là giá trị riêng của người Việt, mà là chung của những cộng đồng di dân khác đang cùng sinh sống trên nước Mỹ. Thế giới ngày nay vẫn còn những người di dân, những người sẵn sàng bỏ hết mọi thứ, mạo hiểm cả sinh mạng để thoát khỏi chiến tranh, tuyệt vọng để tìm đến những nơi an toàn, có cơ hội, có tự do. Từng là di dân, từng được làm lại cuộc đời từ đầu nhờ vào lòng nhân từ độ lượng của người Mỹ, người Việt tị nạn cần có sự cảm thông với những cộng đồng di dân khác.
 
Đánh dấu 50 năm ngày kết thúc Chiến tranh Việt Nam, người Việt tị nạn tưởng nhớ lại hành trình vượt biển của chính mình, nhưng cũng muốn hướng đến tương lai. Chúng ta không thể quên quá khứ, lịch sử, cội nguồn. Quá khứ giống như một cái nền vững chắc để người Việt tị nạn xây dựng ngôi nhà tương lai. Sống trên ngôi nhà mới, chúng ta nhìn lên bầu trời rộng mở. Vân Ánh tâm sự rằng bản thân mình không phải là thuyền nhân; sinh ra và lớn lên ở miền Bắc sau chiến tranh Việt Nam, di cư đến Mỹ vào năm 2001. Điều này không ngăn cản cô tìm hiểu về câu chuyện của người Việt tị nạn sau 1975. Cô lắng nghe những câu chuyện về chiến tranh, về đời tị nạn của cả người Nam lẫn người Bắc Việt Nam. Trong lúc đi phỏng vấn người Việt tị nạn, có lần cô được bảo rằng người Bắc như cô sẽ không thể hiểu về hoàn cảnh của người tị nạn! Cuộc chiến đã tạo ra sự chia rẽ sâu sắc; tất cả người Việt đều có những nỗi đau, mất mát của riêng mình. Nhưng sau nửa thế kỷ, rồi cũng đến lúc nghĩ về cảm thông, chữa lành. Vân Ánh muốn góp phần truyền tải thông điệp này.
 
Trong những ngày cuối tháng 4 năm nay, một số sự kiện kỷ niệm 50 kết thúc chiến tranh Việt Nam đã được tổ chức tại nhiều nơi khác nhau trên nước Mỹ. Nhiều người Việt tị nạn thuộc thế hệ thứ nhất, thứ hai, thứ ba đã nói lên những thông điệp chữa lành, cảm thông. The Odyssey của Vân Ánh là một trong những thông điệp đó, được truyền tải bằng ngôn ngữ âm nhạc, thứ âm thanh không có biên giới giữa các nền văn hóa khác nhau trên toàn cầu, huống gì là sự ngăn cách giữa người Việt với người Việt…
 
Doãn Hưng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.