Trong những năm qua, các chính phủ phương Tây đang biến việc trục xuất di dân thành chính sách quen thuộc, và đáng lo hơn, thành điều “bình thường mới.”
Dưới thời Tổng thống Donald Trump, Hoa Kỳ nhanh chóng mở rộng các biện pháp giam giữ và trục xuất người không có quốc tịch. Chỉ trong vài tháng gần đây, chính quyền Trump đã ký thỏa thuận với nhiều quốc gia thứ ba để gửi những người bị trục xuất tới, ngay cả khi họ không hề có bất kỳ mối liên quan nào với những nơi đó.
Tình hình tại Úc Đại Lợi cũng tương tự. Vào tháng 9, chính phủ Úc đã âm thầm ký một hợp đồng trị giá 2.5 tỷ Úc Kim trong vòng 30 năm với quốc đảo nhỏ Nauru để đưa những người bị trục xuất đến đó.
Cả hai quốc gia này đều đang áp dụng một cách làm giống nhau: đẩy di dân đi chỗ khác cho khuất mắt, không cần biết họ là ai, đến từ đâu, hay có liên quan gì với nơi họ bị gửi đến hay không.
Ở Anh, tình hình cũng không khả quan hơn. Thủ tướng Keir Starmer và Đảng Lao Động từng hứa sẽ dẹp bỏ kế hoạch trục xuất người xin tị nạn sang Rwanda của chính phủ tiền nhiệm. Thế nhưng, chỉ trong năm 2024, chính phủ của ông đã trục xuất gần 35,000 người, tăng 25% so với năm 2023. Starmer còn đề nghị thành lập các “trung tâm hồi hương” (return hubs) đặt tại nước ngoài để đưa những người bị bác bỏ đơn xin tị nạn đến đó.
Trong khi đó, Đảng Cải Cách (Reform Party, một đảng cực hữu ở Anh Quốc) thì thẳng thừng tuyên bố nếu lên nắm quyền, họ sẽ khai triển kế hoạch “trục xuất hàng loạt,” sử dụng cả các căn cứ quân sự để giam giữ và đẩy hàng trăm ngàn người ra khỏi đất nước.
Ngay cả Liên Âu cũng đang xem xét cho phép các nước thành viên trục xuất người xin tị nạn sang các nước thứ ba, bất kể họ có liên quan gì đến nơi đó hay không.
Thật ra, việc trục xuất di dân không phải là hiện tượng mới lạ. Trong lịch sử, các chính phủ đã từng sử dụng cách này để đẩy những người bị coi là “rắc rối” ra khỏi lãnh thổ, thí dụ như Úc từng là nơi lưu đày tù nhân của Anh. Nhưng điều đáng nói là ngày nay, chuyện trục xuất đã trở thành một phần quen thuộc trong chính sách di trú của nhiều nước. Và không chỉ vậy, việc trục xuất ngày càng đi kèm với những chính sách khắt khe, thiếu nhân đạo, thậm chí quy chụp di dân là tội phạm.
Di cư cũng là một cái tội
Điều đang diễn ra hiện nay là biểu hiện của một quá trình hình sự hóa và trừng phạt di dân ngày càng khắc nghiệt, song hành cùng sự trỗi dậy của chủ nghĩa chuyên chế ngay trong lòng các quốc gia tự do.
Trong ba mươi năm qua, việc xin tị nạn ngày càng khó khăn vì các rào cản pháp lý và an ninh biên giới ngày càng siết chặt. Những người phải chạy trốn khỏi chiến tranh, bạo lực hay đàn áp thường không còn cách nào khác, buộc lòng phải tìm đến những con đường “không chính thức.”
Thay vì bảo vệ họ, nhiều chính phủ lại nắm bắt điểm này, gọi họ là “dân nhập cư bất hợp pháp” và coi việc tìm nơi trú ẩn là hành vi phạm pháp. Và rồi cái mác “bất hợp pháp” giúp chính quyền dễ dàng giam giữ và trục xuất họ mà không bị chỉ trích gì nhiều.
Ngay cả những người nhập cư hợp pháp, đặc biệt là người da màu, cũng bị kiểm soát nghiêm ngặt hơn, không cần biết tình trạng di trú của họ là gì, họ có làm gì phạm pháp hay không.
Ở Hoa Kỳ, Anh Quốc và Úc Đại Lợi, những từ ngữ mang tính kỳ thị người nhập cư, từng là “đặc sản” của truyền thông cực hữu, nay đã len lỏi vào nhiều bài phát biểu, diễn văn chính trị và cả luật pháp. Điều này khiến việc trục xuất dần trở nên “hợp pháp,” “bình thường,” và ngày càng được mở rộng. Chuyên gia di trú Alison Mountz gọi đây là “cái chết của quyền tị nạn.”
Chẳng hạn như ở Úc, chính phủ đã thay đổi luật từ năm 2014, hạ thấp tiêu chuẩn hủy visa. Kết quả là ngay cả những người phạm lỗi nhỏ cũng có thể bị bắt giam và trục xuất. Có người bị giam suốt nhiều năm vì không thể hồi hương, mãi đến năm 2023, Tối Cao Pháp Viện (TCPV) Úc mới ra lệnh trả tự do cho họ.
Nhưng ngay cả khi đã thụ án xong và còn phải chịu thêm những khoảng thời gian dài trong trại giam di trú, họ vẫn bị truyền thông khắc họa như một mối đe dọa nghiêm trọng đối với cộng đồng. Vậy là chính phủ có cớ để trục xuất họ (cùng với hàng ngàn người có thị thực không ổn định khác) đến một nước thứ ba.
Ở Hoa Kỳ, trục xuất từ lâu đã là một phần trong chính sách di trú. Cựu Tổng thống Barack Obama từng bị gọi là “Tổng Tư lệnh Trục xuất” (Deporter in Chief) với con số kỷ lục 3 triệu người bị trục xuất. Nhưng nếu Obama còn phân biệt “tội phạm và gia đình,” thì Trump lại đánh đồng mọi di dân với tội ác và bất ổn. Tấm lưới của ông giăng rộng hơn, bắt giữ cả những người không có tiền án tiền sự, thậm chí cả công dân Hoa Kỳ. Các biện pháp giam giữ, trục xuất còn bị lợi dụng làm công cụ để đàn áp những tiếng nói bất đồng chính kiến (tiêu biểu như những người biểu tình phản đối chiến tranh ở Gaza).
Để thực hiện lời hứa trục xuất một triệu người trong năm đầu nhiệm kỳ, chính quyền Trump đã gấp gáp biến nhà tù cũ và căn cứ quân sự, kể cả nhà tù Guantánamo Bay, thành trung tâm giam giữ và “gõ cửa” 58 quốc gia để tìm nơi tiếp nhận người bị trục xuất. Bi kịch là khi đến nơi, nhiều người lại tiếp tục bị giam giữ trong khách sạn, trại tị nạn, nhà tù, và đối mặt với cơ nguy bị trục xuất một lần nữa.
Bóng ma độc tài âm thầm trỗi dậy
Nhiều chính sách hiện nay đang lặng lẽ loại bỏ quyền được đối xử công bằng của di dân. Họ bị tước quyền kháng cáo, bị cắt ngắn thời gian chuẩn bị, và khó tìm luật sư – tất cả tạo ra một quy trình trục xuất mờ ám và chớp nhoáng.
Vào tháng 6, tám người bị trục xuất ra khỏi Hoa Kỳ đến Nam Sudan mà không được quyền phản đối. Sau khi nỗ lực can thiệp của tòa án thất bại, ba thẩm phán TCPV đã phải thốt lên: “Chính phủ đã thể hiện bằng cả lời nói và hành động rằng họ xem mình không bị ràng buộc bởi luật pháp, có thể trục xuất bất cứ ai, đến bất cứ đâu, mà không cần thông báo hay cho họ có cơ hội được giãi bày.”
Tại Anh Quốc, Đảng Lao Động đã mở rộng chương trình “Trục xuất trước, kháng cáo sau,” nâng số quốc gia thứ ba mà người bị trục xuất không có quyền kháng cáo từ 8 lên 23. Còn ở Úc, Luật Di Trú được sửa đổi để xóa bỏ những nguyên tắc nền tảng về quyền được xét xử công bằng đối với người sắp bị trục xuất.
Những chính sách này đang gieo rắc nỗi kinh hoàng, khiến các cộng đồng di dân phải sống trong sợ hãi triền miên. Luật sư nhân quyền Alison Battisson mô tả việc trục xuất như “cái chết từ từ đang gặm nhấm từng người và gia đình họ.”
Tệ hơn nữa, chính sách trục xuất còn tiếp sức cho các nhóm cực hữu và tân phát xít (neo-Nazi). Gần đây, họ đã xuống đường tại Anh và Úc để kêu gọi đóng cửa biên giới, chấm dứt tiếp nhận di dân nhập cư. Họ “bẻ lái” những vấn đề xã hội như thiếu nhà ở, việc làm, y tế (vốn là hậu quả của nhiều thập niên theo đuổi chính sách tân cấp tiến neoliberal) thành “mọi vấn đề do di dân mà ra.”
Cộng đồng không im lặng
Giữa cảnh u ám đó, các cộng đồng đang tự mình đứng lên và đấu tranh cho một nền chính trị nhân đạo hơn.
Ở Los Angeles, các tổ chức ở địa phương đã hợp sức để chống lại những chiến dịch bố ráp của ICE. Họ tạo ra mạng lưới hỗ trợ, cung cấp thông tin và giúp đỡ những người bị nhắm đến. Trong tháng 7, Detention Watch Network tái khởi động liên minh Communities Not Cages nhằm chống lại việc bố ráp, bắt giam di dân.
Ở Anh, trước những cuộc biểu tình của phe cực hữu nhắm vào các khách sạn dành cho người tị nạn, người dân địa phương đã tổ chức các cuộc tuần hành đáp trả, hô vang thông điệp chào đón và đoàn kết.
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất hiện nay là làm sao kết nối các hành động đơn lẻ này thành một phong trào mạnh mẽ, đủ sức ngăn chặn sự trỗi dậy của thứ chính trị chuyên quyền, chỉ biết cấm đoán và xua đuổi người khác. (VB biên dịch)
Nguồn: “Around the world, migrants are being deported at alarming rates – how did this become normalised?” được đăng trên trang TheConversation.com.
Gửi ý kiến của bạn



