Hôm nay,  

Cô Mười

01/08/202313:10:00(Xem: 4205)
Truyện

cheo do

Ông Hương Cả làng Ngọc Thạnh nổi tiếng mát tay, tuy là chức sắc trong làng nhưng người làng ít kêu ông là ông Hương Cả mà họ kêu là thầy Hai. Thầy Hai bốc thuốc Nam rất hiệu nghiệm, ai bị bệnh gì cũng tìm tới thầy Hai. Thầy Hai xem mạch và bốc thuốc làm phước chứ chẳng phải lấy tiền.
    Thầy Hai có đến chín người con nhưng không hiểu sao người làng chỉ nhắc đến bốn người sau cùng mà ít khi nói về mấy người con lớn, có lẽ bốn người sau có nhiều cá tánh hơn chăng? Cô Sáu Bụng có ngón nghề làm tương chao ngon bá cháy, tiếng đồn khắp nơi. Tương cô Sáu ngon, rền, béo, thơm, đậm đà hương vị… Người làng gần xa và các tổng khác đều ghiền, không chỉ người ăn chay mà người ăn mặn cũng thích, bữa cơm mà thiếu chén tương là mất ngon. Người kế là cậu Bảy Tiệm, cậu có tài kinh doanh, mùa mía mua đường, mùa lúa trữ thóc. Đường cậu bảy bán ra tận Hải Phòng, vô Sài Gòn, lên Nam Vang, vì thế mà cậu Bảy giàu có nhất vùng, là tài chủ của địa phương. Cậu Tám Tòng thì lại học ngón nghề bốc thuốc xem mạch của ông Hương Cả. Người làng Ngọc Thạnh, Thanh Huy, Đại Hội, gần xa đều rước cậu Tám đi xem mạch. Người con gái út là cô Mười, Thầy Hai cưng cô Mười lắm, muốn gì cũng chìu, dành hết tình thương cho cô Mười. Mà kể cũng lạ, cô Mười hổng giống mấy anh chị mình. Cậu Bảy, cậu Tám cao dong dỏng, da trắng, thanh tú, trong khi ấy cô Mười lại da ngăm ngăm, tướng đậm thấp và chắc nụi. Tuy là con gái út nhưng cô Mười rất cứng rắn, tháo vát chứ hổng có ủy mị, nũng nịu, yểu điệu như những cô con gái út khác. Cô Mười không thích học chữ Nho hay chữ quốc ngữ, ông Hương Cả cố ép nhưng cổ chỉ học qua loa lấy lệ, Cô Mười thích học võ, đi quyền, suốt ngày chạy nhảy rong chơi với bọn con trai nhà ông Ba Tá, Bốn Sự. Thằng Hân lớn nhất trong đám, nó còn dạy cô Mười tập chạy xe thổ mộ, có lần Cô Mười quất roi mạnh quá, lại giật dây cương sai nhịp khiến con ngựa  kéo cả cái xe chạy xuống ruộng lúa đầu đình Ngọc Thạnh luôn, bữa đó anh Hân bị ông Ba Tá oánh một trận và còn bị cấm leo lên xe thổ mộ. Cô Mười cũng bị thầy Hai rầy một trận nhưng rồi đâu cũng vào đó, chuyện cũng êm xuôi như bao chuyện khác đã xảy ra. Thầy Hai nói:
    – Con gái con đứa gì mà cứ nhồng nhỗng như con trai, ai dám rước về làm dâu?
    Cô Mười cười hô hố:
    – Con hổng làm dâu ai hết, ở nhà với tía thôi!
    Thầy Hai nhìn cô Mười cười và lắc đầu:
    – Con gái hổng gả để làm mắm hả?
    – Con hổng thèm làm dâu ai hết, mai kia tía già con lo cho tía!
    – Thôi khỏi, con lo cho con trước đi nha! Ý tứ, thùy mị một chút để rồi tía kiếm mối cho con! Con gái có một thời, bông búp hổng bán bông tàn bán ai mua? Mà tía thấy thằng Hân con nhà Ba Tá cũng được lắm.
    Cô Mười cười nghặt nghẽo, anh Hân là bạn ruột của cô Mười, tự dưng tía nhắc tới làm cho cô Mười vui hẳn lên. Anh Hân tướng người cũng rắn chắc, đậm thấp và rất tháo vát, tánh tình thì rất ăn rơ với cô Mười, hồi nào giờ cứ kêu ông với bà chứ chẳng chịu xưng anh em gì hết ráo, mặc dù anh Hân lớn hơn cô Mười cả mươi tuổi. Hai Hân và cô Mười có nghe loáng thoáng là thầy Hai và ông Ba Tá có hứa làm sui, nhiều người cũng đồn vậy và cặp đôi, tuy nhiên anh Hân và cô Mười vẫn cứ tỉnh như ruồi, chẳng coi chuyện đó có gờ ram nào hết. Bữa kia cô Mười kêu anh hai Hân lại:
    – Ông có biết gì không? Tía tui muốn làm sui với tía ông đó!
    Anh Hai Hân cười cười:
    – Vậy bà dzìa làm dzợ tui.
    Cô Mười xí một cái dài cả cây số:
    – Xí, ai mà thèm làm dzợ ông, mà tui cũng hổng muốn làm dzợ ai hết.
    – Vậy bà muốn ở giá sao?
    – Tui hổng biết nhưng giờ tui chưa tính.
    – Bà tính được gì? Tía bà tính cho bà.
    – Bộ ông hổng sợ người ta cười “chuột sa hũ nếp” hả?
    – Bà nghĩ chỉ có nhà thầy Hai giàu? đừng quên nhà ông Ba Tá cũng là cự phú trong làng này à nha!
    – Ông thương thầm tui hả? Sao coi bộ khoái cái chuyện hứa làm sui của hai khứa lão vậy?
    – Thương gì bà? Tía nói lấy ai thì lấy đại vậy thôi!
    Tuy nói vậy nhưng ánh mắt và cử chỉ của Hai Hân thì khác, người tinh ý sẽ thấy Hai Hân có tình ý thương thầm cô Mười. Đi chơi đâu cũng phải có cô Mười, chuyện gì cũng cho cô Mười là nhứt, chỉ cô Mười đánh võ đi quyền, luôn bảo vệ cô Mười, khen cô Mười này nọ. Có lần cô Mười cũng nghi ngờ Hai Hân nên cảnh cáo:
    – Tui với ông là bạn trong làng, hổng có thương gì hết ráo à nha!
    Hai Hân cười cầu tài:
    – Cô Mười muốn sao cũng được.
    Hai người vẫn cứ ông bà như hồi nào vậy, cứ nhông nhổng trong làng như còn con nít chứ chưa đủ tuổi lớn. Tuy vậy người làng Ngọc Thạnh vẫn cứ đồn rân cả lên chuyện hứa hôn, người thì nói hai đứa đó hợp rơ ăn ý lấy nhau sẽ thuận vợ thuận chồng, cũng có người lại nói gièm: “Cô Mười tánh đàn ông, chắc gì sống hạnh phúc?”, v.v.
 
***
 
Tháng chạp năm Giáp Dần, cả làng Ngọc Thạnh râm ran bàn tán chuyện thầy Hai gả cô Mười cho anh Hai Hân con nhà ông Ba Tá. Hổng biết thầy Hai có ép uổng gì không hay chỉ thuyết phục giỏi mà không thấy cô Mười cự lại. Cô Mười vẫn như mọi ngày, chẳng có vẻ gì là sắp về làm dâu nhà ông Ba Tá. Ngày cưới, thầy Hai mặc áo dài xanh đậm chữ thọ, khăn đóng, giày Gia Định đưa cô Mười sang nhà Ba Tá để làm dâu. Cô Mười mặc áo dài hồng, đội khăn vành vàng có mạng lưới trắng phủ xuống mặt, cũng má phấn môi son nên trông khác hẳn mọi ngày. Bà con trong làng chạy theo coi quá trời, người này chỉ trỏ, người kia chen lấn nhìn cô Mười làm cô dâu. Ai đó nói oang oang:
    – Cô Mười mặc áo cô dâu cũng đẹp quá nha!
    Tụi con nít bu quanh cứ rần rật chờ pháo nhà ông Ba Tá nổ. Hai Hân đi bên cạnh cô Mười vừa mắc cỡ vừa sung sướng cứ cười cười tủm tỉm, vẻ mặt rất là hãnh diện với mọi người. Tiệc cưới linh đình, kéo dài từ trưa cho tới tận mười giờ đêm, nhạc xập xình rộn cả đầu trên xóm dưới. Hai Hân tì tì nốc cạn rượu mời, rượu phạt, rượu mừng, rượu mớn. Hai Hân tửu lượng có cao nhưng uống cỡ đó thì cũng lè nhè say. Khách khứa chẳng cần biết đêm nay Hai Hân có động phòng nổi hay không, cứ mời lên ly liên tục.
    Ba ngày sau Hai Hân lại đưa cô Mười hồi dâu đặng chào và cảm ơn ông Hương Cả, giờ là tía vợ rồi! Cô Mười sau cưới vẫn vậy, gỡ hết áo xống phấn son xuống thì cô dâu lại hiện nguyên là cô Mười, chẳng có chút gì thay đổi, vẫn cứ ông ông bà bà mà chẳng chịu xưng em như người ta. Hai Hân thì giờ cũng có lúc biết kêu cô Mười là em nhưng phần nhiều vẫn là bà, ấy vậy mà chữ bà của Hai Hân nó ngọt lắm nha, nó tình sao ấy. Bà Tư Lượm phàn nàn:
    – Con gái con đứa gì mà ăn nói thô quá, hai vợ chồng bay y hệt nhau, sao hổng kêu anh em cho nó tình mà cứ ông ông bà bà như hồi chưa cưới!
    Nói thì nói vậy thôi chứ bà Tư Lượm biết cô Mười từ hồi còn con nít. Bà không bằng lòng việc ông Ba Tá hứa làm sui với thầy Hai, tuy nhiên mọi việc trong nhà đều nhất nhất do Ba Tá xếp đặt. Ông đã quyết thì bà Tư Lượm cũng phải chịu thôi. Người ta nói ai có tiền thì người ấy nắm quyền. Bà Tư Lượm về làm vợ Ba Tá cũng là do sự xếp đặt của chính ông. Vợ ông mất sớm, ông thấy nhà Sáu Lầu có cô con gái lớn khá xinh nhưng chưa thấy ai dạm hỏi. Ba Tá nhờ mai mối tới lui vài bận thì Sáu Lầu gả cô Tư Lượm cho Ba Tá. Cô Tư Lượm về làm vợ Ba Tá sướng quá trời, hổng phải làm lụng khổ sở như ở nhà mình. Ba Tá cũng thương Tư Lượm nhưng mọi việc trong nhà Ba Tá quản lý hết.
    Bà Tư Lượm cũng không ghét gì cô Mười nhưng mẹ chồng nàng dâu đôi khi cũng có lời qua tiếng lại, Cô Mười thì tánh tình không được dịu dàng chi mấy, thậm chí còn rất ngang ngay sổ thẳng nên bà Tư Lượm cũng không vừa ý. Có lần bà Tư Lượm sai cô Mười đem rổ trứng gà ra chợ bà Bâu bán, cô Mười đi thẳng ra cống ông Bổn đổ hết cả rổ trứng gà xuống mương rồi về. Bà Tư Lượm hỏi tiền đâu thì cô Mười nói té mương nên trứng trôi hết rồi. Bà Tư Lượm tức tối la lối ầm ĩ khiến Hai Hân biết chuyện:
    – Sao em đổ hết trứng gà của má?
    – Má biểu đi bán nhưng cục tức chẹn ngang cổ, thở hổng nổi, tui đổ hết rổ trứng xuống cống ông Bổn vậy mà giờ tan cục tức, nhẹ gì đâu á!
    Hai Hân cười như mếu:
    – Vậy mà sao hồi đó tui thương bà được, thiệt là hổng hiểu nổi?
    Cô Mười đáp:
    – Hối hận phải hôn? Nếu hết thương thì tui dzìa nhà tía tui!
    Hai Hân không trả lời mà quay lưng bước đi một mạch.
    Cuối năm Bính Thìn, Bảy Tiệm trúng mánh, đường bán giá cao lời khẳm luôn. Bảy Tiệm thương cô Mười, cho cô Mười món tiền lớn. Cô Mười ra chợ bà Bâu mua cho bà Tư Lượm xấp lãnh Mỹ A hảo hạng, ông Ba Tá cái mục kỉnh mới, hàng tây chính hiệu, Hai Hân bộ đồ tây vừa vặn đẹp hết sẩy. Mấy bà hàng xén chợ bà Bâu khen:
    – Cô Mười thô tháo vậy chứ cũng tình nghĩa quá trời, coi người đừng có nhìn bề ngoài à nha!
    Ăn ở nhau có mấy mặt con, Hai Hân đổi tánh, từ thô tháo tự dưng yêu đương lãng mạn, cặp bồ với cô Hai Sự, Hai Sự nhan sắc cũng chẳng hơn gì cô Mười nhưng được cái hiền lành và ngọt ngào. Hai Sự là gái quá lứa mà chưa có ai rước nên Hai Hân mới có cơ hội thậm thụt tới lui. Làng xóm cứ xì xào bàn tán, cô Mười cũng nghe phong phanh nhưng không nghĩ rằng Hai Hân có mèo. Thế rồi Hai Sự có bầu. Giờ thì người Làng Ngọc Thạnh, Thanh Huy, Mỹ Điền, Quy Hội, Quán Cẩm… cười nói bàn tán dữ lắm, ai cũng tưởng phen này cô Mười sẽ làm ầm ĩ lên, sẽ đánh ghen, vì tánh cô Mười xưa nay nổi tiếng nóng như lửa rơm. Nào ngờ cô Mười im lặng, chẳng đá động gì, không làm gì cả, ngay cả một lời chửi rủa cũng không. Người ta ngạc nhiên lắm, càng thêm tò mò, càng thêm pha mắm giặm muối vào câu chuyện. Bà Năm Ròm léo nhéo với mấy bà khác trong làng:
    – Đến nước này thì ông Phật cũng giận chứ đừng nói chi người, ấy vậy mà sao con Mười nó im ru vậy ta?
    Mấy bà bàn tán mổ xẻ câu chuyện, suy đoán lung tung nhưng chẳng ai cắt nghĩa được sao cô Mười im lặng trong khi bản tánh cô Mười rất nóng và thô tháo. Mấy ông sồn sồn trong làng khi uống vài ba xị đế cũng đem chuyện cô Mười ra cười cợt. Ông Bảy Thà nói:
    – Tại cô Mười thô tháo nên thằng Hân mới đi tìm người nhẹ nhàng dịu hiền.
    Ông Mười Thập ngửa cổ làm cái ót chung rượu, nêu thắc mắc:
    – Người như cô Mười lẽ ra sẽ ghen lồng lộn, đánh ghen dữ lắm mới phải, sao đằng này lại im ru vậy cà?
    Ông Chín Cửu gắp cái phao câu trầy trật bèn bỏ đũa lấy tay cầm cạp ngon lành, miệng còn dính mỡ nhầy nhụa nói:
    – Ở đời nhiều khi thấy vậy nhưng không phải vậy, khi đụng chuyện mới biết bản chất thật con người. Cô Mười thô tháo tưởng tánh đàn ông nào ngờ có máu trượng phu.
    Cả chiếu nhậu gật gù tán thưởng lời Chín Cửu, cả đám hò dô dô mấy lượt mừng lời nói hay.
    Mấy tháng sau cô Mười về thưa chuyện với ông Bảy Tiệm, trong mấy anh em thì Bảy Tiệm thương cô Mười nhất. Bảy Thạnh bèn cắt cho cô Mười một mảnh đất vườn để cất nhà. Nhà cất xong, cô Mười và bốn đứa con về đấy ở. Cô Mười theo Bảy Tiệm đi buôn đường khắp nơi, mấy năm sau có được món tiền kha khá cô Mười mua một căn nhà ở chợ bà Bâu và mở tiệm chạp phô, từ đó công việc làm ăn ngày càng phất lên.
    Cô Mười ly thân ra riêng thì Hai Hân rước cô Hai Sự về sống chung luôn, hai người có thêm mấy mặt con nữa, tuy ly thân nhưng Hai Hân vẫn chạy tới chạy lui chứ không cắt đứt. Cô Mười cũng vui vẻ như thường chứ chẳng điều tiếng gì, nhà cửa khi cần gì cũng kêu Hai Hân về sửa, việc nhà khi cần có mặt đàn ông thì Hai Hân vẫn đứng ra cáng đáng. Cô Mười cũng không hề nặng nhẹ gì với Hai Sự, người trong làng cứ ngỡ có cuộc chiến nhưng chẳng bao giờ thấy, họ cứ nghi ngờ hổng biết cô Mười có toan tính gì trong đầu sao chẳng thấy lộ ra.
    Ngày giỗ ông Ba Tá, cô Mười và cả Hai Sự cùng làm mâm cơm cúng, tuyệt nhiên không có lời qua tiếng lại, cũng chẳng ai thấy mặt nặng mày nhẹ bao giờ. Mấy đứa con cô Mười và con cô Hai Sự cũng nhìn nhận anh em và thân mật với nhau khiến người làng cứ mãi bàn tán gia đạo nhà cô Mười ăn ở vậy mà hay.
    Người chợ bà Bâu đồn lung tung là Hai Hân lấy vàng của cô Mười đem cho cô Hai Sự. Mấy đứa con cô Mười nghe được nên sanh nghi, thằng Hùng con lớn của cô Mười hỏi cổ:
    – Có Phải ba lấy vàng của má đem cho dì Hai Sự?
    Cô Mười cười cười không xác nhận cũng chẳng bác bỏ:
    – Thôi đi con, nước chỗ đầy chảy xuống chỗ cạn cũng là lẽ thường.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 0723)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ngày nào em cũng nhắc mà anh cứ quên hoài. Rán uống thuốc cho mau hết bịnh,” cô chưa kịp dứt lời thì một tiếng sủa bung ra cùng lúc với cái gạt tay hung hãn, “Hết cái con mẹ cô ấy!” Ly nước tay này, lọ thuốc tay kia cùng lúc bật khỏi tay cô, văng xuống nền xi măng, ném ra một mảng âm thanh chát chúa. Cái ly vỡ tan. Nước văng tung tóe, những mảnh thủy tinh văng khắp chung quanh, vạch những tia màu lấp lánh. Không dám nhìn vào hai con mắt đỏ lửa, cô cúi đầu dán mắt vào vũng nước loang loáng, vào những viên thuốc vung vãi trên nền nhà. Những viên thuốc đủ màu làm cô hoa mắt (viên màu vàng trị đau, viên màu đỏ an thần, viên màu nâu dỗ giấc ngủ, cô nhớ rõ như thế...) Một viên màu đỏ lăn tới chân cô.
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.