Hôm nay,  

Dây Phơi Mùa Hạ Cũ

30/05/202500:00:00(Xem: 712)

mua ha cu
Minh họa Đinh Trường Chinh

để nhớ Western Ontario University
 
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như  hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau. Sau này đi nhiều nơi, cũng lại gặp nữa, nhưng chúng bơ vơ lẩn lút giữa những cao ốc sang trọng và các dãy nhà xám xịt người nghèo. Chỉ riêng một thành phố Địa trung hải đó, ở đó những dây quần áo tung bay rực rỡ trong nắng chói không chút e lệ. Chàng đứng, dựa lưng vào bờ tường có cây lựu ra trái đỏ, bên một con đường lên dốc có những chiếc xe tải chạy qua làm bụi bay mù, nhìn ngắm sợi dây dài, căng những chiếc áo đầm, sơ mi đàn ông, đủ thứ trang phục, những đôi vớ bay phấp phới, giày trẻ em lủng lẳng, mũ, nón. Trong thành phố của chúng ta, mọi người đều dùng máy giặt và sấy. Ngay cả những ngày đẹp trời nhất người ta cũng không nghĩ đến chuyện đem áo quần ra phơi. Vậy chàng đứng đó giữa buổi trưa nắng gắt, gió rì rào, nhìn thấy quê nhà. Chàng đếm kỹ từ đầu đến cuối dây phơi, bằng sợi tơ đồng, có ba mươi hai thứ, quần áo đàn bà đàn ông và trẻ con lẫn lộn. Ngày trước không phải thế, cái nào ra cái đó. Mẹ chàng có một cái sân phơi nhỏ, sau bếp, gần chuồng gà, dây phơi đàn ông và dây phơi đàn bà tách biệt. Nhiệm vụ của chàng lúc còn bé là mỗi khi trời sắp mưa, mà ở xứ ấy hay có mưa giông, chúng ào ào, rào rào, ngắn vui vẻ, kịch liệt, như cuộc làm tình của những tình nhân quen biết đã lâu, nhàm nhưng không chán, ít thơ mộng, nhiệm vụ của chàng là mau chân mau cẳng chạy về mang áo quần vào. Có một ngoại lệ: đứa trẻ không bao giờ thấy quần lót đàn bà đâu cả. Bây giờ trong thành phố lớn, chỉ những người nghèo mới phơi quần áo. Đi qua những chung cư của họ, bạn nhìn thấy chúng phất phơ các cửa sổ như những ngọn cờ của một lý thuyết đấu tranh đòi bình đẳng xã hội. Chúng ta nói về môi trường, ký vào các kiến nghị bảo vệ súc vật, bảo vệ rừng và biển, nhưng chúng ta thản nhiên ném áo quần vào máy giặt sấy. Con người ngày càng muốn được đẩy lên cao hơn trong các vị trí đẳng cấp. Bây giờ không phải chỉ là sự đói rách, bây giờ là đẳng cấp, tiền bạc, lòng ham muốn, mới làm con người đau khổ, và không có sự đau khổ nào nhẹ nhõm hơn sự đau khổ nào. Đó là những ý tưởng vẩn vơ của chàng khi đứng trong buổi trưa cuối vườn cái xóm ngoại ô thành phố London, Canada, nơi chàng ở trọ nhà của một nhạc sĩ, bạn vong niên của một anh bạn. Ông nhạc sĩ này còn có một căn nhà nhỏ khác cho thuê, bên cạnh. Chàng nhìn người hàng xóm mới đến, đang tất bật mang áo quần ra phơi sau bụi cây sơn trà, cô ta mới dọn về đây và chưa kịp sắm cho mình một cái dây phơi, chàng thầm đoán. Cô mang những áo, váy, quần jeans, giày và vớ treo lên bụi cây làm những cành lá trĩu xuống. Buổi sáng gấn trưa hôm sau, đi làm về, vì làm việc ca nửa đêm, chàng nhìn thấy nó. Nó nằm trên cỏ phía vườn của chàng như một chiếc lá rụng. Chàng không biết cô gái tên gì, ở với ai, hay một mình. Chàng tới gần, chăm chú nhìn thật kỹ và suy nghĩ xem phải làm gì với nó. Không phải là cây trâm cài tóc của cô Kiều. Không. Chàng đưa tay sờ thử, nó ấm, đen, mượt như nhung, kích thước bằng bàn tay, còn hơi ẩm ướt vì nằm khuất hẳn trong bóng râm. Chàng kéo nó ra xa ngoài ánh nắng. Vụng về, chàng bị cành cây bật lên đâm xước vào tay. Những cuộc đổi dời đã xô đẩy họ đi mỗi lúc một xa, quá khứ chỉ còn là tưởng niệm nghiêm trang. Chỉ là cuộc gặp gỡ ngắn. Rồi sau đó chàng chuyển nhà. Lẽ ra chàng đã có thể làm quen với người hàng xóm mới. Nhưng không. Cuộc trò chuyện bên rào. Cuộc trò chuyện vui vẻ nhưng khó khăn, ngập ngừng. Chiếc quần lót gói trong giấy báo, nữa hững hờ nữa kín đáo, vào lúc chiều tối, hình như vào lúc có một ngôi sao mới mọc, rõ to. Ôi chao chỉ có thế thôi sao. Lẽ ra hai người đã có thể quen nhau. Họ đã có thể đi xa hơn nữa. Mảnh vải nhỏ xíu ấy đã khô từ bao mùa hạ cũ. Mỗi khi tình cờ đứng nhìn sợi dây phơi quần áo, mà chúng bay phấp phới như những mảnh cắt, cắt ra từ những ngày tháng đẫm mặt trời, chàng tưởng rằng chỉ cần trở lại đó, đứng bên hàng rào, sau bụi sơn trà kia, thì tự khắc chiếc lá ấy lại trở về, nửa khô nửa ướt, và nghe lại được giọng nói của nàng vào lúc đó. Giọng nói ấy không có gì đặt biệt, nhưng ngân nga.
- Chời ơi.

Đó là câu buột miệng của nàng khi mở gói giấy báo kia ra.

Nguyễn Đức Tùng
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.